Category: Tin PTN Tế bào gốc

  • 40 năm khoa học – công nghệ TP.HCM: Công nghệ tế bào gốc – giấc mơ và hiện thực

    Việt Nam chỉ mới đặt chân lên xa lộ tế bào gốc chưa lâu, điều kiện nhân lực và tài lực còn kém xa các nước phát triển, nhưng các nhà khoa học trong nước đã gặt hái được những thành tựu không nhỏ trong điều kiện nghiên cứu còn giới hạn.

    (Theo khoahocphothong.com.vn)

    Vào lúc 6 giờ 45 phút ngày 21/12/2007, một sự kiện được ghi nhận vào lịch sử khoa học Việt Nam: bầy cá ngựa vằn trong Phòng thí nghiệm tế bào gốc, Đại học quốc gia TP.HCM (ĐHQG-HCM) đã phát sáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Ánh sáng của con cá được tạo ra từ gen GFP có khả năng phát sáng được lấy từ sứa, kết hợp với các hạt kim loại vàng nghiền nhỏ, được chuyển vào phôi trứng cá bằng phương pháp bắn gen. Với thành tựu này, ThS. Phan Kim Ngọc cùng các cộng sự của mình đã ghi tên Việt Nam vào nhóm ít các nước có thể chuyển gen động vật.

    Hiện thực hóa giấc mơ của loài người

    Công nghệ chuyển gen là đỉnh cao của công nghệ sinh học, và càng khó đối với chuyển gen động vật. Mỗi động vật có bộ gen riêng. Công nghệ chuyển gen là thay đổi bộ gen nhằm sửa chữa gen hỏng hoặc tạo ra động vật mang bộ gen mong muốn. Để đi đến thành công, Phòng thí nghiệm bắt đầu thực hiện nghiên cứu này từ trước đó 3 năm. Họ chọn gen phát sáng của sứa để chuyển vào cho cá vì đây là gen có tính đặc thù, có thể thấy rõ bằng mắt thường là gen đã chuyển được hay chưa mà không cần qua bước kiểm tra phức tạp. Ngoài ra, gen phát sáng còn được xem là gen “thông báo” (reporter gene), nếu đưa gen này vào được thì khi chuyển gen khác, có thể dùng nó để thông báo kết quả chuyển các gen kèm theo.

    Đầu tiên, nhóm nghiên cứu tách lấy gen phát sáng GFP (Green Fluorescent Protein) từ con sứa, rồi thao tác gen để có được đầu này đầu kia nhằm gắn plasmid (chất gắn gen) vào đó. Tiếp theo, tìm cách đưa đoạn gen trên vào tế bào trứng đã thụ tinh của cá. Sau đó gây sốc để mở toang bộ gen tế bào này; làm như vậy để khi tế bào gắn lại bộ gen, nó sẽ gắn “nhầm” đoạn gen phát sáng của sứa mà mình mong muốn. Tất cả được thực hiện với kính hiển vi vi thao tác, trong những điều kiện khắt khe về độ thẩm thấu, ánh sáng, nhiệt độ, điều kiện vô trùng… Khi trứng nở, cá con phát sáng. Thử nghiệm trên nhiều loại cá, nhóm nghiên cứu thành công với cá ngựa vằn (tên thông thường là Zebra fish, tên khoa học là Danio rerio). Các nhà khoa học đã canh suốt mấy đêm liền trước khi cá nở. Vào lúc 6 giờ 45 phút sáng 21/12/2007, có 12 trứng nở, tất cả mọi người hết sức mừng rỡ khi nhìn thấy rõ ràng qua kính hiển vi huỳnh quang hàng loạt đốm sáng xanh rất đẹp trên những con cá chuyển gen ra đời đầu tiên. Sau đó tất cả những trứng đã nở, con nào cũng phát sáng, có nghĩa là hội nhập gen đối với con sống đạt 100%.

    Nhận thấy đây là một công nghệ quan trọng, ĐHQG-HCM đã mạnh dạn đầu tư nguồn kinh phí ban đầu lên đến 40 tỷ đồng để thành lập Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc năm 2007. Đến nay, những nhà nghiên cứu của Phòng đã cho thấy sự đầu tư ấy không hề phí phạm, họ đã thực hiện những công trình nghiên cứu chuẩn, sâu, phát triển công nghệ ứng dụng tế bào gốc trong y học, dược học, mỹ phẩm, nông nghiệp… Phòng thí nghiệm hiện đang đẩy mạnh nghiên cứu ung thư, là hướng nghiên cứu chủ đạo, đồng thời nghiên cứu điều trị các bệnh khác như tiểu đường, thiếu máu tim cục bộ, thực hiện tái tạo giác mạc mắt, thụ tinh nhân tạo trên người, tạo vật liệu trị phỏng…

    Đầu năm 2014, được sự hỗ trợ của NXB Springer, Phòng thí nghiệm đã phát hành tạp chí bằng tiếng Anh, với tên “Biomedical Research and Therapy” (ISSN: 2198 – 4093) với hình thức Open Access, mỗi tháng một số. Phòng thí nghiệm tiếp tục phát hành tạp chí chuyên đề về tế bào gốc với tên “Progress in Stem Cell” (ISSN 2199 – 4633) cũng với hình thức Open Access, 3 tháng 1 số. Đến nay, Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc đã công bố hơn 50 công trình trên các tạp chí, sách quốc tế; đã nộp đăng ký 5 sáng chế, giải pháp hữu ích.

    Những người làm nên kỳ tích

    Tiếp cận và chinh phục chân trời khoa học mới này là một tập thể nghiên cứu còn rất trẻ làm việc dưới hướng dẫn của ThS. Phan Kim Ngọc. Suốt gần 20 năm qua, ông hiếm có một ngày nghỉ ngơi, hết giờ lên lớp lại “giam mình” trong phòng thí nghiệm từ sáng sớm đến tối khuya. Những căn bệnh từ thời chiến khiến cơ thể suy nhược nặng vẫn không làm mòn đi ý chí của nhà khoa học đã từng là chiến sĩ chiến đấu trên khắp các chiến trường. Bước vào lĩnh vực công nghệ cao là thử thách rất lớn đối với một đất nước chỉ mới thoát khỏi chiến tranh chưa lâu, những thành công của nhà khoa học trở về từ chiến trường cùng cộng sự của ông cho chúng ta niềm tin rằng đi sau chưa hẳn đã muộn.

    “Trong nghiên cứu khoa học, hãy tin vào thế hệ trẻ. Họ có thể làm được điều mà thế hệ đi trước không làm được. Điều đó có nghĩa là người thầy cần có trách nhiệm và tạo điều kiện cho các bạn làm việc”, ThS. Phan Kim Ngọc luôn tin tưởng những cộng sự trẻ của mình như thế, và họ đã cùng ông khẳng định thêm uy tín của Phòng thí nghiệm.

    Năm 2007, đề tài tái tạo giác mạc mắt từ tế bào gốc do Phòng thí nghiệm kết hợp với Trường ĐH y Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện mắt TP.HCM thực hiện được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học công nghệ quốc gia. Năm 2008, đề tài tạo tinh trùng chuột từ tế bào mầm sinh dục tiếp tục được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học công nghệ quốc gia. Năm 2009, Phòng thí nghiệm đoạt Giải thưởng sáng tạo khoa học kỹ thuật TP.HCM với đề tài tạo bò sữa từ tế bào trứng đông lạnh.

    Việt Nam chỉ mới đặt chân lên xa lộ tế bào gốc chưa lâu, điều kiện nhân lực và tài lực còn kém xa các nước phát triển, nhưng các nhà khoa học trong nước đã gặt hái được những thành tựu không nhỏ trong điều kiện nghiên cứu còn giới hạn.

    Như Quỳnh
    http://www.khoahocphothong.com.vn/newspaper/detail/40722/40-nam-khoa-hoc—cong-nghe-tp-.hcm:-cong-nghe-te-bao-goc:-giac-mo-va-hien-thuc.html
  • ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI PHÔI NGƯỜI LÀM CHIA RẼ CÁC NHÀ KHOA HỌC

    ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI PHÔI NGƯỜI LÀM CHIA RẼ CÁC NHÀ KHOA HỌC

    Các nhà nghiên cứu đang bất đồng quan điểm trong việc biến đổi phôi người thông qua con đường di truyền học.

     

    02

    Hình. CRISPR/Cas9 tạo ra những biến đổi chính xác trên gen mục tiêu.

     

    Những nhà khoa học thống nhất rằng cần phải ngăn chặn những nhà nghiên cứu sử dụng những kĩ thuật biến đổi gen mạnh mẽ trên phôi người, nhưng họ đang chia rẽ vì lý do gì?

    Vài người nói rằng nếu nỗi sợ hãi về tính an toàn có thể dịu đi, ví dụ như những ứng dụng có một tương lai tươi sáng hơn và có thể giúp tiêu diệt những căn bệnh nguy hại. Những người khác lại cho rằng việc sửa đổi DNA của phôi, đồng nghĩa với việc những thay đổi đó có thể di truyền đến thế hệ sau, một con đường luân thường đạo lý không nên được thông qua.

    Mối lo ngại này xuất phát từ một bài báo được công bố trên tạp chí Nature vào ngày 12 tháng 3 năm 2015 và một bài báo khác được mong chờ xuất hiện trên tạp chí Science, giữa những nghi ngờ rằng các nhà khoa học đã biến đổi hoàn toàn những gen của phôi người.

    Những kĩ thuật biến đổi gen sử dụng những enzyme nuclease để cắt DNA tại những điểm chuyên biệt và sau đó loại bỏ hoặc sửa lại những thông tin di truyền tại vị trí đó. Gần đây nhất, sự phấn khích tập trung vào một kĩ thuật gọi là CRISPR/Cas9, một phương pháp rất dễ sử dụng. Hiện nay, những kĩ thuật chỉ được ứng dụng trên những tế bào sinh dưỡng hoặc tế bào không có khả năng sinh sản: ví dụ, công ty Sangamo BioSciences of Richmond, California đã sử dụng enzyme nuclease zinc finger (ngón tay kẽm), một công nghệ biến đổi gen cũ hơn, để loại bỏ một gen từ những tế bào bạch cầu mã hóa cho thụ thể mà virus HIV gắn vào để xâm nhập tế bào.

    Nhưng mối lo ngại tập trung vào việc sử dụng biến đổi gen để sửa đổi bộ gen của trứng và những trứng đã được thụ tinh – một quá trình được gọi là biến đổi tế bào dòng mầm.

    Edward Lanphier, chủ tịch của Sangamo và chủ tịch Hội đồng của Hội liên hiệp Y học tái tạo ở Washington DC, cùng với những đồng nghiệp ở hai tổ chức này đã viết một bài báo phản hồi trên tạp chí Nature kêu gọi các nhà khoa học ngưng việc biến đổi phôi người, thậm chí là trong nghiên cứu. Tác giả cảnh báo rằng những công việc như vậy có thể bị khai thác cho “những sửa đổi không mang tính chữa trị” – như để thay đổi màu mắt trẻ chẳng hạn – và gây ra một sự phản đối của công chúng về một “vi phạm đạo đức” có thể gây trở ngại cho việc sử dụng biến đổi gen trên tế bào sinh dưỡng

    Họ cũng có những phản đối đơn giản hơn. Lanphier nói “Chúng ta là con người, không phải là con chuột biến đổi gen”. “Chúng tôi tin rằng đó là một vấn đề đạo đức cơ bản xuyên biên giới đối với việc sửa đổi tế bào dòng mầm người”.

    George Church, một nhà di truyền học tại Đại học Y Harvard ở Boston, Massachusetts, đồng ý rằng cần phải có một lệnh tạm ngưng hoạt động biến đổi phôi, nhưng chỉ “cho đến khi vấn đề an toàn được làm sáng tỏ và sự đồng thuận chung chấp thuận nó”. Church, cùng với một nhóm các nhà khoa học đã gặp ở Napa, California, vào tháng giêng năm 2015 để thảo luận các vấn đề đạo đức và tiềm năng của những tiến trình nay, một phần trong công bố trên tạp chí Science mô tả chi tiết hơn về những lo ngại của họ.

    Một mối lo ngại rằng những enzyme nuclease có thể gây ra những đột biến tại các vị trí khác với vị trí mục tiêu và có khả năng gây bệnh. Church nói rằng những biến đổi gen ở động vật có khả năng tiết lộ cách thức làm thế nào để hiểu và tránh các biến chứng này. Trong một thử nghiệm ứng dụng, nhóm của ông đã biến đổi các gen liên quan đến hệ miễn dịch ở phôi heo để “nhân hóa” chúng hướng đến việc cho phép những cơ quan của heo có thể ghép cho người.

    Những chỉ định khác về tính an toàn sẽ đến từ những thử nghiệm trên tế bào sinh dưỡng. Sangamo đã chứng minh tính an toàn của những tế bào bạch cầu biến đổi trong một thử nghiệm lâm sàng của người với virus HIV.

    Church thấy căn bản không có vấn đề gì với việc biến đổi tế bào dòng mầm – ông lưu ý rằng ngay cả những liệu pháp trên tế bào sinh dưỡng vẫn là một dạng sửa đổi nhân tạo. Ông so sánh việc biến đổi gen trong phôi với việc thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm (IVF), mọi người vẫn phản đối cho đến khi nó đã được chứng minh là an toàn.

    Craig Mello, tại Đại học Massachusetts ở Worcester, một nhà di truyền học đã đạt giải Nobel, nói rằng “trong một tương lai xa, tôi có thể tưởng tượng rằng các tế bào dòng mầm đã biến đổi sẽ bảo vệ con người chống lại ung thư, đái tháo đường và các vấn đề liên quan đến tuổi tác khác. Trong thời gian gần hơn, đó có thể là một lý do chính đáng để thí nghiệm với phôi thai bị loại bỏ hoặc những tế bào gốc phôi vì mục đích nghiên cứu”.

    Nhưng Lanphier nói rằng hầu hết mọi trường hợp mà cha mẹ mang những gen gây bệnh, không phải tất cả những phôi của cặp đôi đó đều mang gen lỗi. Những kĩ thuật hiện hành có thể được sử dụng để sàng lọc di truyền và chọn ra những phôi thai khỏe mạnh trước khi cấy vào tử cung, phủ nhận sự cần thiết phải sửa chữa tế bào dòng mầm. Ông nói “hầu như luôn luôn có lựa chọn thay thế”

    Tuy nhiên, Church cho rằng đối với số ngày càng tăng của các trường hợp trong đó vài gen có liên quan đến một căn bệnh, hầu hết phôi cần phải được loại bỏ. Việc biến đổi sẽ làm tăng đáng kể tỷ lệ có được một phôi thai khỏe mạnh .

    Dana Carroll, một nhà di truyền học tại Đại học Utah ở Salt Lake City, người đã có mặt tại cuộc họp Napa, nói rằng Viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ nên triệu tập một hội nghị bao gồm các chuyên gia y tế và những người quan tâm đến các khía cạnh tích cực và tiêu cực của tế bào dòng mầm biến đổi.

    Carroll cũng trích dẫn tầm quan trọng của việc giáo dục các thế hệ bác sĩ tiếp theo về việc biến đổi gen. “Hiện nay, họ cần được học tập những gì công nghệ có thể làm và những gì xã hội, cũng như lâm sàng, đang lo ngại.”

     

    Kiều Oanh dịch

    Theo Nature

    ngtkoanh@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://www.nature.com/news/ethics-of-embryo-editing-divides-scientists-1.17131

  • SỰ NHẢY VỌT CỦA CÔNG NGHỆ CRISPR TỪ PHÒNG THÍ NGHIỆM VÀO DOANH NGHIỆP

    SỰ NHẢY VỌT CỦA CÔNG NGHỆ CRISPR TỪ PHÒNG THÍ NGHIỆM VÀO DOANH NGHIỆP

    Các nhà khoa học đã khai trương công ty để phát triển liệu pháp tiềm năng của các enzyme phân cắt gen.

    01

    Hình: Feng Zhang, một trong những người sáng lập của Editas Medicine, hướng tới sử dụng kĩ thuật biến đổi gen CRISPR để điều trị bệnh.

    Một ngày nào, thay vì uống những viên thuốc được kê đơn để điều trị bệnh tật, các bệnh nhân có thể lựa chọn cách “giải phẫu” gen – bằng cách sử dụng một kĩ thuật biến đổi gen mới để cắt bỏ những đột biến có hại và thay bằng những DNA không đột biến.

    Hệ thống này được gọi là CRISPR (Clustered Regularly Interspaced Short Palindromic Repeats – Cụm đều đặn tạo khoảng trống ở giữa các đoạn ngắn lặp lại đối xứng), đã bùng nổ trong những năm gần đây. Các kĩ sư di truyền, các nhà thần kinh học và thậm chí là các nhà thực vật học xem nó như là một công cụ nghiên cứu cho hiệu quả và độ chính xác cao hơn. Hiện nay, hệ thống biến đổi gen đã tách ra một công ty công nghệ sinh học và đã thu hút được sự quan tâm chú ý từ nhiều nhà đầu tư.

    Editas Medicine, đặt trụ sở tại Cambridge, Massachusetts, thông báo khánh thành vào ngày 25 tháng 11 năm 2013 với vốn đầu tư mạo hiểm ban đầu là 43 triệu đô (USD). Công ty được sáng lập bởi 5 nhà nghiên cứu hàng đầu về CRISPR, hướng tới phát triển liệu pháp trực tiếp sửa đổi các gen liên quan đến bệnh.

    Chủ tịch lâm thời Kevin Bitterman, một nhà đầu tư mạo hiểm tại Polaris Partners ở Waltham, Massachusetts, một trong những người ủng hộ Editas nói, “Đây là nền tảng có thể gây tác động sâu sắc trên hàng loạt các rối loạn di truyền”

    Vết cắt đẹp nhất

    CRISPR được phát hiện dựa trên chiến lược mà vi khuẩn sử dụng để phát hiện và cắt nhỏ DNA ngoại lai. Enzyme cắt DNA Cas9 tìm thấy mục tiêu của nó với sự trợ giúp của một trình tự RNA chỉ dẫn, mà hiện nay các nhà nghiên cứu có thể thiết kế tập trung vào nơi tiềm năng của bất kỳ gen mong muốn nào.

    Feng Zhang, một nhà thần kinh học của Viện nghiên cứu não bộ McGovern thuộc Viện Công nghệ Massachusetts tại Cambridge, Massachusetts, một trong những người sáng lập Editas, đã nói “Editas không tiết lộ mục tiêu dự định, nhưng công nghệ này có thể được xem xét để thử nghiệm đầu tiên trên các bệnh gây ra bởi duy nhất một bản sao gen bị lỗi.” Đơn giản là chỉ cần vô hiệu hóa bản sao gây bệnh để dọn đường cho một bản sao tốt hơn thay vào vị trí đó. Điều kiện chữa trị liên quan đến hai bản sao gen mất chức năng sẽ cần đến sự sửa chữa gen bằng cách cắt nối các DNA khỏe mạnh – một kỳ công mà theo Zhang sẽ cần phải làm nhiều việc và nhiều kĩ thuật hơn.

    Cuộc cạnh tranh của CRISPR

    Hướng tiếp cận liệu pháp gen thông thường sử dụng virus để chuyển DNA – một phương pháp tương đối chính xác có thể đưa vào những gen có ích, nhưng không thể thay đổi những trình tự bị lỗi.

    Biến đổi gen mục tiêu, một loại mà Editas đang hướng tới, đã bị chi phối bởi một công ty: Sangamo BioSciences of Richmond, California. Sangamo sử dụng một hệ thống khác, dựa trên enzyme nuclease zinc-finger (liệu pháp ngón tay kẽm), để cắt và vô hiệu hóa các gen mong muốn. Nhiều nhà nghiên cứu nói rằng CRISPR dễ sử dụng và phổ biến hơn enzyme nuclease zinc finger, nhưng Sangamo có một sự khởi đầu mạnh mẽ hơn Editas. Những thử nghiệm lâm sàng của công ty này đã cho thấy kết quả khả quan bằng cách sử dụng enzyme nuclease zinc-finger để phá vỡ gen mã hóa cho một protein bề mặt tế bào mà virus HIV sử dụng để xâm nhập vào tế bào miễn dịch.

    Philip Gregory, giám đốc khoa học của Sangamo, nói “CRISPR đã xuất hiện trong thế giới học thuật như một cơn bão và nó là một công nghệ mới rất hấp dẫn”. Nhưng ông cũng nói thêm, vẫn đang có vài nút thắt cần được giải quyết, gồm các nghiên cứu đã đề nghị rằng Cas9 có thể tạo ra những vết cắt tại các vị trí trong không phải là mục tiêu trong bộ gen. Zhang nói rằng nhóm của anh và những người khác vẫn đang làm việc để làm tăng tính chuyên biệt của enzyme và đã thu nhận được vài kết quả.

    Thật vậy, cả hai công ty hy vọng có được sự chấp thuận của Ủy ban Thực phẩm và Thuốc của Hoa Kỳ (FDA). Nicholas Bishop, một nhà phân tích công nghệ sinh học tại Cowen and Company ở NewYork nói “FDA sẽ không bao giờ chấp nhận một sản phẩm của liệu pháp gen”.

     

    Kiều Oanh dịch

    Theo Nature

    ngtkoanh@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://www.nature.com/news/crispr-technology-leaps-from-lab-to-industry-1.14299

  • CÔNG NGHỆ PHÁT TRIỂN MÔ RUỘT CÓ CHỨC NĂNG  TỪ TẾ BÀO GỐC NGƯỜI

    CÔNG NGHỆ PHÁT TRIỂN MÔ RUỘT CÓ CHỨC NĂNG TỪ TẾ BÀO GỐC NGƯỜI

    Tờ Science Daily ngày 8 tháng 1 năm 2015 đã đưa tin “ Công nghệ phát triển mô ruột sử dụng tế bào người có chức năng”. Công trình này được nghiên cứu bởi nhóm tác giả đứng đầu là Tiến sĩ Tracy C. Grikscheit, Viện Nghiên cứu Saban của Bệnh viện Nhi đồng Los Angeles. Với công nghệ mô phát triển ruột non từ tế bào gốc người mang các đặc điểm có chức năng giống mô ruột người, dự án nghiên cứu đã tiến một bước gần hơn trong việc giúp đỡ các bệnh nhân bằng công nghệ y học tái tạo này.

     

    p1

    Tiến sĩ Tracy C. Grikscheit – Viện nghiên cứu Saban thuộc Bệnh viện Nhi đồng Los Angeles

    Ruột non được phát triển từ công nghệ mô mang các đặc điểm quan trọng của màng nhầy lớp niêm mạc và các cấu trúc hỗ trợ chức năng bao gồm khả năng hấp thụ đường, các thành phần có cấu trúc từ nhỏ đến siêu nhỏ như các kết nối giữa các tế bào.

    Công nghệ hình thành và phát triển ruột non xuất phát từ tế bào gốc tồn tại trong ruột và mang nhiều hứa hẹn trong điều trị hội chứng ruột ngắn (Short Bowel Syndrome -SBS). Hội chứng này là nguyên nhân chính dẫn đến hoạt động bất thường của đường ruột, đặc biệt ở trẻ sinh non và trẻ sơ sinh bị dị tật đường ruột bẩm sinh. Ruột non phát triển từ công nghệ này có thể cung cấp một liệu pháp điều trị thay thế cho kỹ thuật điều trị hiện tại, đó là cấy ghép ruột, và có tiềm năng giải quyết các thách thức đang đặt ra của cấy ghép ruột bao gồm: thiếu hụt tạng hiến tặng và bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch kéo dài nhằm duy trì tạng ghép.

    Tiến sĩ Grikscheit thực hiện nghiên cứu này nhằm hướng đến giúp đỡ các bệnh nhân trẻ tuổi có tình trạng bệnh nặng nhất, bao gồm trẻ em sinh non và phát triển bệnh theo hướng trầm trọng được gọi là Viêm ruột hoại tử (Necrotizing Enterocolitis – NEC). Tình trạng Viêm ruột hoại tử đe dọa cuộc sống của bệnh nhân bởi vì ruột non bị cắt bỏ một đoạn lớn phần ruột bị hủy hoại. Sau khi bị cắt bỏ một phần ruột, em bé không đủ chiều dài ruột nên phụ thuộc vào việc cho ăn qua tĩnh mạch. Phương pháp cho ăn này rất tốn kém và có thể gây hủy hoại gan. NEC và các nguyên nhân khác gây thất bại chức năng ruột xảy ra với tỉ lệ 24./100.000 trẻ em đang sống, và tỉ lệ các trường hợp SBS ngày càng tăng. Gần 1/3 trẻ em chết trong độ tuổi 5 tuổi.

    Trước đó, vào tháng 7 năm 2011, nhóm nghiên cứu của bệnh viện Nhi đồng Los Angeles đã đăng lên tạp chí Tissue Engineering kết quả sử dụng ruột non từ công nghệ mô trên mô hình chuột. Kết quả này chỉ xác định được các thành phần cơ bản của ruột. Nhưng để phù hợp cho ứng dụng lâm sàng, nghiên cứu này cần phải kiếm tra thêm chức năng của các thành phần như khả năng hình thành màng bảo vệ mà vẫn có thể hấp thu được chất dinh dưỡng hay đảm bảo cơ chế trao đổi điện thế chuyên biệt. Nghiên cứu mới chỉ ra ruột non từ công nghệ mô ở chuột có nét tương đồng cao với ruột non từ công nghệ mô ở người và cả hai đều chứa tế bào gốc và tế bào tiền thân. Chính các tế bào này sẽ góp phần tái tạo lại ruột giống phương pháp ghép ruột. Các tế bào gốc và tế bào tiền thân nằm ở một vị trí chuyên biệt trong mô kỹ nghệ và nằm gần với các tế bào đã có chức năng chuyên biệt.

    p2

    Hình 2: Khoa nhi đã tạo ra mô ruột (một phần tá tràng của ruột non) từ công nghệ mô, mô phỏng các chức năng cơ bản của ruột người. Các thí nghiệm đã chứng minh mô ruột này có khả năng phân giải đường thành glucose

    Các kết quả nghiên cứu trên đã mở ra hy vọng rất lớn cho các bệnh nhi bị tình trạng ruột ngắn bằng công nghệ mô sử dụng tế bào gốc.

    Nguyễn Thị Mỹ Phước dịch

    Theo Science Daily

    ntmphuoc@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://www.sciencedaily.com/releases/2015/01/150108141309.htm

  • TRUNG KHU THẦN KINH CHO VIỆC NÓI NHƯNG KHÔNG THẬT SỰ “NÓI”

    TRUNG KHU THẦN KINH CHO VIỆC NÓI NHƯNG KHÔNG THẬT SỰ “NÓI”

    Sau khi được phát hiện lần đầu tiên cách đây hơn 150 năm, vùng Broca vẫn được tin là trung khu thần kinh chịu trách nhiệm cho hành động nói của con người bao gồm cả việc phát âm. Nhưng những phát hiện gần đây của các nhà khoa học Đại học Berkeley California và Đại học John Hopkins, Maryland đang thách thức quan niệm lâu đời này.

    Vào những năm 1860, nhà vật lý học người Pháp Pierre Paul Broca phát hiện ra vùng trước não là trung khu cho việc nói, phát âm; ngày nay được gọi là vùng Broca. Đây là một trong những vùng não đã được nghiên cứu kỹ về chức năng ngôn ngữ. Những người bị rối loạn ngôn ngữ vùng Broca do chấn thương vùng não trước có khuynh hướng nói những câu ngắn, mệnh đề đơn và bỏ các liên từ.

    Nhóm nghiên cứu đã thực hiện các khảo nghiệm trên 7 bệnh nhân bị chứng động kinh với các điện cực ghi nhận xung điện trên võ não để xác định được các vùng não được kích hoạt để tiếp nhận, xử lý và đáp ứng với các kích thích là ngôn từ. Các bệnh nhân được cho nghe các từ vựng và yêu cầu lặp lại các từ nghe được. Kết quả theo dõi tín hiệu điện cho thấy từ vùng vỏ não thính giác tín hiệu âm thanh là các từ được xử lý, chuyển ngang qua vùng Broca’s để chuẩn bị cho từ lặp lại và cuối cùng, phần vỏ não vận động tạo ra tín hiệu giúp bệnh nhân phát âm từ đó.

    Tiến sĩ Adeen Flinker, tại Đại học Berkeley, tác giả của công trình cho biết “Kết quả này cho thấy vùng Broca’s không phải là trung tâm tạo ra lời nói mà một vùng trung gian có chức năng tổng hợp và phối hợp thông tin ngôn ngữ để chuyển sang vùng não khác thực hiện chức năng nói. Vùng Broca’s hoàn toàn “im lặng” khi chúng ta nói, nhưng nó vẫn hoạt động trong suốt cuộc hội thoại với vai trò là chuẩn bị ngôn từ và hoàn thiện câu.”

    Nghiên cứu này có tiềm năng ứng dụng trong việc chẩn đoán và điều trị chứng rối loạn ngôn ngữ do đột quỵ, động kinh và tổn thương não.

    d

    Hình. Sự phân bố các vùng kích thích và các điểm hoạt động của não. (A) Sự phân bố về không gian của các vùng được kích thích, màu xanh là các điểm hoạt động trước khi phát âm, màu đỏ là các điểm hoạt động trong khi và sau khi phát âm. (B) Đồ thị phân bố các điểm hoạt động của não theo vùng chức năng, xanh da trời vùng STG (rãnh trên thái dương), xanh lá – vùng Broca’s, cam – vỏ não vận động.

    Lê Minh Dũng

    Theo neuroscientistnews.com

    lmdung@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://newscenter.berkeley.edu/2015/02/16/brocas-area/

  • NGÀY TẾ BÀO GỐC 2014 – STEM CELL DAY 2014

    Sáng ngày 24/12/2014, tại hội trường I, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, Đại Học Khoa học Tự nhiên-Đại Học Quốc Gia HCM đã tổ chức Ngày hội Tế bào gốc kỷ niêm 7 năm hình thành và phát triển PTN (2007-2014). Ngày Hội diễn ra với nhiều hoạt động phong phú cùng với sự tham gia của hơn 500 các nhà khoa học, các bác sĩ, học viên cao học, sinh viên và các thành phần khác. Mở đầu ngày hội, Trưởng phòng thí nghiệm Thầy Phan Kim Ngọc ôn lại quá trình hình thành và các mục tiêu hoạt động của PTN. Tiếp nối chương trình, Phó trưởng PTN TS. Phạm Văn Phúc tổng kết lại những thành tựu của PTN trong 7 năm hoạt động. Trong khuôn khổ của ngày hội, PTN đã tổ chức buổi lễ Tri ân nhằm tôn vinh các đóng góp của các Thầy/Cô cho sự hình thành và phát triển của PTN.

    Chương trình được tiếp tục bằng buổi tổng kết cuộc thi “Ý tưởng sáng tạo Tế bào gốc” lần 1 – Stem Cell Innovation. Sau hơn 3 tháng diễn ra cuộc thi, hơn 249 sinh viên đến từ 8 trường đại học trên toàn quốc đã tham gia vô cùng tích cực với 109 ý tưởng về tất cả các lĩnh vực ứng dụng tế bào gốc. Trải qua Vòng loại, Vòng Sàn ý tưởng, Bán kết và Chung kết, 6 ý tưởng xuất sắc nhất đã dành được giải thưởng chung cuộc. Giải nhất đã được trao cho ý tưởng “Sử dụng tế bào gốc cá chình điện (Electrophorus electricus) tạo máy phát điện sinh học” của nhóm sinh viên năm nhất đến từ trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Tp.HCM.

    Sự kiện thứ 3 trong ngày Tế bào gốc 2014 là buổi hội thảo “Gặp gỡ Tế bào gốc” lần 3 của hội Tế bào gốc Thành phố Hồ Chí Minh do PTN Tế bào gốc đăng cai tổ chức bao gồm các báo cáo, nghiên cứu về tính an toàn của tế bào trong nghiên cứu và ứng dụng.

    Mở đầu hội thảo, TS. Phạm Văn Phúc, Phó Trưởng PTN Tế bào gốc, đã báo cáo về “Những thách thức của ứng dụng tế bào gốc trong chăm sóc sức khoẻ”. Tiếp sau TS. Phạm Văn Phúc, ThS. Trương Hải Nhung (ThS. Phó Trưởng PTN Tế bào gốc) cùng với ThS. Vũ Bích Ngọc và ThS. Phạm Lê Bửu Trúc đã trình bày những khó khăn trong nghiên cứu và ứng dụng Tế bào gốc từ in-vitro đến cận lâm sàng và lâm sàng.

    Sau khi nghe các báo cáo viên trình bày, nhiều câu hỏi đã được đặt ra, chủ yếu xoay quanh các vấn đề về tính ứng dụng của tế bào gốc tại Việt Nam, cũng như tính an toàn của nó khi được sử dụng trên người.

    Tuy buổi gặp gỡ chỉ diễn ra gói gọn trong 60 phút ngắn ngủi, nhiều thắc mắc còn chưa kịp giải đáp, nhưng các diễn giả đã phần nào phác họa được bức tranh nghiên cứu Tế bào gốc tại Việt Nam và trên Thế giới cho những người tham dự. Ban Tổ Chức hy vọng tình hình nghiên cứu Tế bào gốc tại Việt Nam sẽ ngày càng tươi sáng hơn, nhận được nhiều ủng hộ hơn từ cộng đồng.

    Sự kiện thứ 4 trong khuôn khổ chương trình Ngày hội Tế bào gốc là buổi “Tọa đàm Tế bào gốc –Từ nghiên cứu đến ứng dụng”. Buổi tọa đàm diễn ra với sự tham gia của các Khách mời là các nhà chuyên môn trong lĩnh vực tế bào gốc. Buổi tọa đàm được chủ trì bởi GS.TS. Trương Đình Kiệt – Chủ tịch Hội Tế bào gốc TPHCM và ThS.GVC. Phan Kim Ngọc –  Trưởng Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Ứng dụng Tế bào gốc. Các nhà khoa học và các bác sĩ tham gia giải đáp các câu hỏi gồm TS. Phạm Văn Phúc – Phó trưởng Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, TS.DS. Nguyễn Đức Thái – Cố vấn cấp cao Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, các bác sĩ  TS.BS. Huỳnh Nghĩa – ĐH Y dược TPHCM, TS.BS. Bùi Hồng Thiên Khanh –  ĐH Y dược TPHCM, ThS.BS. Lê Thị Bích Phượng – Đơn vị Tế bào gốc Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh và Bà Trương Thị Thu Huyền – Ngân hàng Tế bào gốc Mekostem. Hơn 100 câu hỏi về các vấn đề liên quan tế bào gốc đã được gửi về cho buổi tọa đàm. Trong đó, được quan tâm nhiều nhất là các câu hỏi liên quan đến tình hình nghiên cứu tế bào gốc tại Việt Nam, hiện trạng sử dụng tế bào gốc trong điều trị các bệnh về máu, về thoái hóa khớp, bệnh tự miễn, bệnh ung thư. Các câu hỏi lần lượt được các chuyên gia giải đáp và phản hồi rõ ràng, đầy đủ. Buổi tọa đàm kết thúc trong khi vẫn còn rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời do giới hạn thời gian, các câu hỏi sẽ được chuyển đến cho các chuyên gia và được trả lời qua thư điện tử.

     

     

    Các khách mời tham dự buổi tọa đàm. (từ trái sang: Bà Trương Thị Thu Huyền, TS.DS. Nguyễn Đức Thái, TS. Phạm Văn Phúc, ThS.GVC. Phan Kim Ngọc, GS.TS. Trương Đình Kiệt, TS.BS. Huỳnh Nghĩa, ThS.BS. Lê Thị Bích Phượng, TS.BS. Bùi Hồng Thiên Khanh)

     

    Ngoài các sự kiện được tổ chức bên trong Hội trường, ngoài sân trường ĐH Khoa học tự nhiên cũng đã diễn ra buổi triễn lãm tế bào gốc với các nội dung đặc sắc và phong phú. Khu vực gian hàng tế bào gốc với sự tham gia của Công ty Becton Dickinson Asia, Công ty Thế giới Gen- Geneworld và PTN Tế bào gốc đem tới cho khách tham quan những hình ảnh, thông tin về các thiết bị, máy móc phục vụ quá trình nghiên cứu cũng như những sản phẩm từ tế bào gốc. Tại khu vực Thành tựu tế bào gốc, các công trình nghiên cứu về Tế bào gốc được trưng bày ở dạng poster một cách ngắn ngọn súc tích, giúp khách tham quan hiểu rõ hơn các nghiên cứu về tế bào gốc cũng như những tiềm năng ứng dụng to lớn của nó. Ngay cạnh khu vực trưng bày thành tựu tế bào gốc là bức tường Ước mơ tế bào gốc. Đây là nơi các bạn sinh viên, các khách tham quan cũng như các nhà nghiên cứu viết lên những ước mơ của mình, những ước mơ mà công nghệ tế bào gốc có thể góp phần biến thành hiện thực. Nổi bật và chiếm một lượng lớn trên bức tường ước mơ tế bào gốc là những ước mơ mông muốn đẩy lùi ung thư, chữa trị cá bệnh nan y, nâng cao chất lượng sống. Một khu vực khác cũng thu hút được sự chú ý của rất nhiều bạn sinh viên là khu vực Ý tưởng tế bào gốc, đây là khu vực trưng bày các ý tưởng đã đạt được giải cao trong cuộc thi Stem Cell Innovation. Triễn lãm đã tạo một sân chơi học tập và nghiên cứu cho tất cả sinh viên cũng như các khách tham quan yêu thích lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, y học, dược học và nông nghiệp các lĩnh vực có liên quan đến tế bào và tế bào gốc trên người và động vật.

    Ngày Hội Tế bào gốc đã kết thúc tốt đẹp trong không khí thân mật và ấm cúng của buổi tiệc đêm.

     

  • PHÁT HIỆN MỚI VỀ CƠ CHẾ DI CĂN VÀ TÁI PHÁT CỦA TẾ BÀO GỐC UNG THƯ

    Tế bào ung thư khi tách khỏi khối u sẽ tìm một vị trí phát triển mới thích hợp hơn, thông tin mới nhất từ các nhà nhiên cứu tại Đại học Illinois.

    Một số yếu tố đặc biệt giúp tế bào ung thư chuyển đến các cơ quan khác của cơ thể, quá trình này được gọi là sự di căn (metastasis). Sự di căn có thể giúp tế bào tránh được các biện pháp điều trị tại chỗ khối u. Nhóm nghiên cứu tại Illinois kết hợp với Đại học đã phát hiện ra rằng các tế bào khởi tạo khối u có thể lẫn trốn tốt trong các mô rắn nhưng lại phát triển mạnh ở điều kiện các mô mềm. Kết quả nghiên cứu được đăng trên tạp chí Nature Communications.

     

    “Nguyên nhân tái phát ung thư vẫn chưa được biết rõ”, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, Ning Wang phát biểu. Các nhà nghiên cứu chia sẻ: Tại sao một số tế bào còn sót lại có thể trở nên mạnh mẽ hơn? Chúng tôi cho rằng các tế bào ung thư này có một số đặc tính giống tế bào gốc cho phép chúng di chuyển đến các mô khác nhau. Thông thường, nếu bạn đặt một tế bào gan vào trong phổi, nó sẽ chết. Nhưng một tế bào chưa biệt hóa sẽ sống”

     

    Hai năm trước, nhóm nghiên cứu của Wang đã trình bày phương pháp chọn lọc tế bào khởi sự khối u, hay còn gọi là tế bào gốc ung thư (cancer stem cell) bằng phương pháp nuôi cấy. Nhờ phương pháp này, các nhà nghiên cứu có thể phân phân lập tế bào gốc ung thư từ mô ung thư da melanoma, một loại ung thư da phổ biến và có nguy cơ tái phát sau khi điều trị cao, nhằm nghiên cứu môi trường xung quanh ảnh hưởng đến khả năng phân chia của tế bào và nguyên nhân gây ra khối u mới.1.7

    Các nhà nghiên cứu cho tế bào gốc ung thư phát triển trong gel có độ cứng khác nhau, một số rất mềm và một số rất đặc nhằm mô phỏng các mô khác nhau trong cơ thể. Những kết quả thu được rất thú vị.

    Những tế bào gốc ung thư đặt trong môi trường gel mềm phát triển rất mạnh. Nhưng trong môi trường gel đặc, chúng lại không tăng sinh. Tuy nhiên, những tế bào này lại không chết, chúng không hoạt động, giống như là đang “ngủ đông”. Sau đó, nếu chuyển những tế bào ngủ đông này sang môi trường gel mềm, chúng lại “thức giấc” bắt đầu phân chia và phát triển.

    Wang dự đoán rằng tính chất ngủ đông và thức giấc của tế bào gốc ung thư khi đặt trong các môi trường nuôi cấy khác nhau có thể là mấu chốt để giải thích rằng tại sao các mô mềm như mô não hay phổi là nơi các tế bào gốc ung thư dễ di căn đến.

    “Chúng ta thấy rất nhiều cơ quan rắn khác nhau trong cơ thể có thể bị ung thư, nhưng nếu bạn để ý tại các vị trí ung thư do di căn, hầu hết là ở các mô mềm” Wang cho biết. “Não, phổi, gan và xương đều là những mô mềm. Điều này có thể không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Chúng tôi cần làm thêm nhiều nghiên cứu để chứng minh điều đó”.

    Tiếp theo, Wang và  cộng sự hy vọng có thể tìm ra có chế tại sao tế bào gốc ung thư có khả năng kháng lại thuốc, một tính trạng làm cho việc tái phát ung thư trở nên khó điều trị hợn. Hiểu rõ cơ chế này sẽ giúp các bác sĩ điều trị ung thư tái phát tốt hơn. Theo Wang, nếu hiểu rõ cơ chế hoạt động của tế bào gốc ung thư có thể tìm ra cách ngăn chặn sự di căn của chúng ngay giai đoạn đầu.

    “Vấn đề nổi bật trong nghiên cứu vừa công bố này là cơ chế điều khiển tế bào gốc ung thư tăng sinh. Việc hiểu biết những có chế này giúp chúng tôi nhận biết ra những mục tiêu chưa từng được biết trước đó, những mục tiêu đặc biệt cho thử nghiệm các loại thuốc mới. Điều này có thể giúp chúng tôi tìm ra cách ngăn chặn và điều trị tái phát của ung thư”, Wang phát biểu.

    Công trình được tài trợ bởi NIH và có sự tham gia nghiên cứu của các trung tâm Department of Bioengineering, the Beckman Institute for Advanced Science and Technology, the Institute for Genomic Biology và  the Micro and Nanotechnology Laboratory tại Illinois. Công trình được đăng tải trên tạp chí Nature Publishing Group với tiêu đề: Matrix softness regulates plasticity of tumor-repopulating cells via H3K9 demethylation and Sox2 expression.

    Theo ScienceBlog.com

    VNN

    http://engineeringatil.scienceblog.com/2014/08/06/cell-mechanics-may-hold-key-to-how-cancer-spreads-and-recurs/elq=57b76d48f7d14deda6cde03c0599c416&elqCampaignId=11

     

  • KHÁM PHÁ MỚI VỀ ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐA XƠ CỨNG BẰNG TẾ BÀO GỐC

    Các nhà khoa học Mỹ vừa công bố nghiên cứu chuột bị đa xơ hóa có thể di chuyển được sau khi được ghép tế bào gốc từ người. Các nhà nghiên cứu đã tiêm tế bào gốc thần kinh người vào tủy sống của chuột và nghĩ rằng chúng sẽ bị thải loại nhưng điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra là các con chuột có dấu hiệu phục hồi bệnh.

    Giáo sư Tom Lane từ Đại học Utah, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu nói: “Nghiên cứu sinh Lu Chen đến và nói với tôi các con chuột đang di chuyển, thật không thể tin vào điều đó”.

    Nghiên cứu này đã mở ra một cơ hội mới cho các bệnh nhân bị đa xơ cứng. Theo thống kê trên thế giới có khoảng 2,3 triệu người bị mắc bệnh này. Các nghiên cứu cho thấy bệnh đa xơ cứng là một loại bệnh tự miễn, hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các bao myelin của dây thần kinh. Bệnh đa xơ cứng thường gây viêm lặp đi lặp lại phá hủy màng bọc myelin, để lại nhiều vùng mô sẹo dọc theo lớp bao ngoài của các tế bào thần kinh, gây tắc hoặc cản trở đường truyền xung điện thần kinh. Bệnh này là nguyên nhân phổ biến gây mất thị lực, rối loạn vận động, mệt mỏi và nói ngọng. Hiện tại, các loại thuốc ức chế hoạt động của hệ miễn dịch được chỉ định cho điều trị bệnh này ở giai đoạn đầu nhưng chưa có thuốc điều trị cho bệnh nhân ở giai đoạn sau.

    1.5

    Dây thần kinh bình thường (trên – phải) dây thần kinh bị phá hủy màng bọc myelin (dưới – phải) trong bệnh đa xơ cứng.

    Các nhà khoa học đã biệt hóa tế bào gốc phôi người thành tế bào tiền thân thần kinh, tế bào có tiềm năng biệt hóa thành các loại tế bào thần kinh. Khi ghép vào chuột các tế bào này giải phóng các chất tiết làm giảm triệu chứng của bệnh đa xơ hóa. Các chất tiết này đang được tiếp tục nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng họ sẽ tiềm ra một phương pháp điều trị tiềm năng cho bệnh này.

    Giáo sư Lane giải thích “thay vì phải ghép tế bào gốc cho bệnh nhân, chúng tôi có thể phát triển một loại thuốc giống như các chất trên, như thế mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn”.

    Giáo sư Sorel Bickley từ hiệp hội bệnh đa xơ cứng bình luận:”Đây là một khám phá thú vị, phát hiện này là một ý tưởng mới cho các nhà khoa học nghiên cứu các liệu pháp điều trị bệnh đa xơ cứng”

    VNN

    (Theo Bionews UK)

  • NHỮNG PHÁT HIỆN MỚI VỀ SỰ DI CĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ VÚ

    Các nhà nghiên cứu Johns Hopkins cho biết học đã xác định được các tín hiệu hóa học mà tế bào ung thư vú sử dụng để “chiêu mộ” hai loại tế bào bình thường khác cho quá trình xâm lấn của khối u. Nghiên cứu được công bố vào đầu tháng 5 trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences.

    “Ngăn chặn một trong những tín hiệu hóa học này trong khối u của chuột đã làm giảm sự xâm lấn hoặc di căn của tế bào ung thư vú” giáo sư Gregg Semenza, giám đốc chương trình sinh học tái tạo mạch của Đại học Y Johns Hopkins phát biểu.  “Nếu tìm ra một loại thuốc an toàn có thể ngăn chặn tín hiệu này ở người thì đó là một phương thức điều trị ung thư vú hiệu quả đối với những bệnh nhân đã kháng hóa trị.”

    Nhóm nghiên cứu của giáo sư Semenza đã nghiên cứu tín hiệu hóa học HIF-1, nhân tố được tiết ra khi tế bào ở tình trạng thiếu oxi. Trước đó, nhóm nghiên cứu đã xác định được HIF-1 chính là nhân tố giúp các tế bào ung thư vú sống sót trong điều kiện thiếu oxi và xâm lấn đến cơ quan khác của cơ thể như phổi. “Trong ung thư vú, nguyên nhân gây tử vong cho bệnh nhân không phải là các khối u ban đầu mà là do các tế bào di căn” giáo sư Semenza nói.

    1.4

    Tương tác giữa tế bào ung thư vú và tế bào gốc trung mô tiết ra các nhân tố “chiêu mộ” tế bào bạch cầu

    Cũng trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu của Semenza đã phát hiện HIF-1 cảm ứng tế bào gốc trung mô (MSC) giải phóng các nhân tố giúp tế bào ung thư vú dễ dàng xâm lấn hơn. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự hiện diện của tế bào gốc có thể giúp cho tế bào ung thư kêu gọi thêm các tế bào bạch cầu của cơ thể vật chủ. Ung thư vú cần sự hỗ trợ của một số tế bào của cơ thể chủ trong quá trình di căn, bao gồm tế bào gốc trung mô và một trong các tế bào bạch cầu. Semenza chia sẻ.

    Nghiên cứu sự tăng sinh của tế bào ung thư trên đĩa nuôi cấy, Semenza và cộng sự đã sử dụng hóa chất để ngăn chặn sự trao đổi tín hiệu giữa tế bào ung thư vú, tế bào gốc trung mô và tế bào bạch cầu để tìm hiểu mối liên hệ giữa chúng. Kết quả cho thấy khi đồng nuôi cấy với tế bào gốc trung mô, các tế bào ung thư sẽ giải phóng các hóa chất dẫn dụ các tế bào bạch cầu. Nồng độ của các chất này tăng lên khi có mặt của nhân tố HIF, nghĩa là trong điều kiện thiếu oxi.

    Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các tế bào ung thư vú biểu hiện yếu các tín hiệu dẫn dụ tế bào bị mất khả năng di căn so với tế bào ung thư vú bình thường khi ghép vào mô hình chuột.

    Tất các các tế bào ung thư vú được sử dụng trong nghiên cứu này đều không biểu hiện các thụ thể estrogen, progesterone, EGF-2 cho nên chúng không đáp ứng với các liệu pháp điều trị trúng đích dựa vào các thụ thể trên. Ở người, các bệnh nhân mang tế bào ung thư vú này thường dẫn đến tình trạng tử vong sớm vì chúng tiết nhiều nhân tố HIF-1, Semenza nói. “Nghiên cứu này chứng minh thêm rằng thuốc ức chế HIF-1 hỗ trợ có hiệu quả trong liệu pháp hóa trị, đặc biệt ở những bệnh nhân mang tế bào ung thư vú không biểu hiện các thụ thể estrogen, progesterone, EGF-2” Một số loại thuốc tiềm năng cho phương pháp điều trị này đang trong giai đoạn đầu phát triển, ông chia sẻ.

    VNN

    (Theo science daily)

  • TẾ BÀO GỐC MANG VIRUS HERPES DÙNG ĐỂ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ NÃO

    Các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Tế bào gốc Harvard (HSCI) ở bệnh viện tổng hợp Massachusetts đã đề ra một giải pháp làm thế nào để tiêu diệt tế bào ung thư một cách hiệu quả bằng cách sử dụng virus. Các nhà nghiên cứu đã dùng tế bào gốc để chuyển virus vào trong khối u não glioblastoma multiforme và cải thiện đáng kể tình trạng sống sót của những con chuột thí nghiệm. Ung thưglioblastoma multiform là một trong những bệnh ung thư não rất khó điều trị và bệnh này thường gặp ở người trưởng thành.

    Sử dụng virus ly giải (oncolytic virus) để điều trị các bệnh ung thư não đã được thử nghiệm lâm sàng phase I, II và đã được một số thành công nhất định. Trong các thử nghiệm tiền lâm sàng, oncolytic HSV (Oncolytic Herpes Simplex Virus) là một công cụ đầy tiềm năng, chúng có khả năng xâm nhiễm vào các tế bào não đang phân chia. Tuy nhiên, liệu pháp điều trị này chưa được áp dụng trên người. Vấn đề tồn tại của các nghiên cứu trước còn tồn tại là làm thế nào để kéo dài thời gian tồn tại của virus herpes trong khối u.

    Shard và các cộng sự đã sử dụng tế bào gốc trung mô (MSC) được thu nhận từ tủy xương để mang virus ly giải. Vì tế bào gốc trung mô là công cụ thường được sử dụng để vạn chuyển thuốc vào cơ thể và hầu như ít gây đáp ứng miễn dịch cho cơ thể. Shard và cộng sự để chuyển virus herpes vào tế bào gốc trung mô người và ghép những tế bào này vào mô hình chuột mang khối u não. Dựa vào những hình ảnh ghi nhận được, virus herpes từ tế bào gốc đã xâm nhập vào lớp tế bào ung thư não bên ngoài khối u và sau đó là tất cả các tế bào khối u.

    1.3

    Virus herpes được chuyển vào tế bào gốc có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư não. Các tế bào ung thư: màu xanh. Tế bào gốc mang virus herpes: màu đỏ. Virus lây nhiễm vào tế bào ung thư: màu vàng.

    “Vậy làm thế nào để áp dụng liệu pháp này vào điều trị lâm sàng” giáo sư Shah phát biểu. “Chúng ta biết rằng 70-75% bệnh nhân ung thư não phải trải qua phẫu thuật để loại bỏ khối u. Nghiên cứu trước của chúng tôi cho thấy MSC mang các chất trị liệu được đóng gói trong gel có khả năng làm giảm kích thước khối u não. Vì thế, chúng tôi chuyền virus herpes vào tế bào gốc trung mô và đóng gói những tế bào này vào trong gel và chuyển vào khối u. Sau đó, chúng tôi so sánh hiệu quả điều trị của virus được chuyển vào MSC và được đóng gói trong gel với virus được tiêm trực tiếp vào khối u”.

    Các phân tử đánh dấu trên bề mặt tế bào được sử dụng để thoi dõi làm thế nào virus có thể tấn công tế bào ung thư. Shah và cộng sự thấy rằng tế bào gốc được đóng gói trong gel có khả năng sống sót lâu hơn và cho phép virus nhân lên và tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu thuật loại bỏ khối u. Các con chuột được ghép virus được chuyển nhờ tế bào gốc có khả năng sống sót cao hơn so với nhóm còn lại.

    Nghiên cứu cũng chỉ ra một nhược điểm của phương pháp này là không phải tất cả các khối u não đều đáp ứng với virus. Để khắc phục hạn chế này, các nhà nghiên cứu đã gắn thêm các hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư vào virus. Sau đó chuyển các virus này vào mô hình chuột ung thư não đã kháng virus trước đó. Kết quả cho thấy nhóm điều trị với virus có gắn các hóa chất tiêu diệt ung thư có thời gian sống sót tăng lên đáng kể.

    “Chiến lược điều trị của chúng tôi có thể khắc phục những vấn đề của các liệu pháp điều trị lâm sàng hiện tại” Shah phát biểu. “Nghiên cứu này sẽ thúc đẩy các thử nghiệm lâm sàng sử dụng virus ly giải để điều trị ung thư, không chỉ điều trị ung thư não mà còn các loại ung thư khác”.

    Các thử nghiệm tiền lâm sàng về sử dụng tế bào gốc mang virus herpes để điều trị ung thư vú, ung thư phổi và ung thư da đã di căn lên não sẽ được tiếp tục nghiên cứu. Shah dự đoán rằng liệu pháp này sẽ được đưa lên ứng dụng lâm sàng trong vòng 2-3 năm tới.

    Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Journal of the National Cancer Institute bởi giáo sư Khaiid Shah và cộng sự. Nghiên cứu được tài trợ bởi quỹ James S. McDonnell FoundationNational Institutes of Health.

    Trích dẫn: Duebgen, M., et. al. Stem cells loaded with multimechanistic oncolytic herpes simplex virus variants for brain tumor therapy. Journal of the National Cancer Institute. June 2014

    VNN

    (Theo Harvard Stem Cell Institute)