Author: tcnhat

  • Bước đột phá để hiểu được tại sao tế bào gốc trở nên chuyên biệt

    ptlan 1

    Hình Tế bào da người dưới kình hiển vi huỳnh quang

    Các nhà khoa học tại Viện Nghiên cứu y sinh Sanford Burnham Prebys (SBP) đã thực hiện một bước tiến lớn trong việc tìm hiểu làm thế nào mà từ các tế bào của sinh vật đều chứa thông tin di truyền giống nhau lại có thể trở thành các tế bào chuyên biệt khác nhau. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Molecular Cell ngày 4 tháng 8 năm 2016 cho thấy Oct4 là loại protein tác động mạnh đến quá trình này. Phát hiện này ảnh hưởng tích cực đến nỗ lực sản xuất các loại tế bào chức năng cho phương pháp điều trị bệnh trong tương lai cũng như cung cấp hiểu biết cho quá trình biệt hóa của tế bào gốc.

    Vấn đề biệt hóa

    Sinh vật -chẳng hạn như con người- sự phát triển bắt đầu sớm nhất từ dạng đơn giản nhất cho tới khi trưởng thành, các tế bào chuyển từ dạng linh hoạt cao- tế bào gốc- sang các tế bào chuyên biệt hơn ở các mô khác nhau. Nhiều phòng thí nghiệm cũng đang cố gắng thâu tóm quá trình này để tạo ra nhiều loại tế bào cần thiết có thể cấy ghép cho bệnh nhân. Cho ví dụ, sản xuất các tế bào beta tuyến tụy để điều trị bệnh tiểu đường hoặc các tế bào thần kinh sản xuất dopamine điều trị bệnh Parkinson.

    Oct4 làm gì

    Oct4 là yếu tố phiên mã- là một protein điều chỉnh hoạt động của gen- duy trì tính vạn năng của tế bào gốc, ngăn chặn không cho tế bào gốc trở thành các dòng tế bào chuyên biệt. Oct4 hoạt động bằng cách gắn vào DNA có thể hoạt động vừa như một nhân tố hoạt hóa phiên mã vừa như một nhân tố ức chế phiên mã. Nghiên cứu mới cho thấy rằng ở các gen nhất định, Oct4 cũng liên kết với các yếu tố khác phiên mã khác được kích hoạt bởi các tín hiệu ngoại bào như vitamin A, thụ thể RAR và beta-catenin để bật gen tương ứng của chúng. Vitamin A chuyển tế bào gốc thành tế bào tiền thân thần kinh, sự kích hoạt của beta-catenin bởi Wnt có thể hỗ trợ tính nhiều tiềm năng hoặc thúc đẩy biệt hóa không theo hướng thần kinh tùy thuộc vào các tín hiệu khác có mặt

    Bức tranh lớn

    Tác giả của bài báo Laszlo Nagy rất hào hứng với phát hiện này: “phát hiện của chúng tôi cho thấy một nguyên tắc chung về cách mà các tín hiệu biệt hóa cùng gây ra quá trình chuyển đổi rõ rệt trong nhiều loại tế bào khác nhau”.

    Bước tiếp theo

    Họ đã tìm thấy mã cho tế bào gốc gắn đầu vào – tín hiệu giống như vitamin A và Wnt -đầu ra- loại tế bào. Tiếp theo họ sẽ có kế hoạch tìm hiểu liệu các yếu tố phiên mã khác có hoạt động tương tự như Oct4 hay không- nghĩa là tìm mã cho các loại tế bào trưởng thành hơn. Nếu các yếu tố khác cũng có những chức năng kép này- duy trì trạng thái hiện tại và là gen mồi cho đáp ứng với các yếu tố ngoại bào- đó sẽ là câu trả lời cho câu hỏi quan trọng trong sinh học phát triển và thúc đẩy các lĩnh vực nghiên cứu tế bào gốc.

    Nguồn:

    Zoltan Simandi, Attila Horvath, Lyndsey C. Wright, Ixchelt Cuaranta-Monroy, Isabella De Luca, Katalin Karolyi, Sascha Sauer, Jean-Francois Deleuze, Lorraine J. Gudas, Shaun M. Cowley, Laszlo Nagy. OCT4 Acts as an Integrator of Pluripotency and Signal-Induced DifferentiationMolecular Cell, 2016; DOI:10.1016/j.molcel.2016.06.039

    Phí Thị Lan

  • VÌ SAO TẾ BÀO UNG THƯ VẪN CÓ THỂ TỒN TẠI KHI THIẾU GLUCOSE?

    Mục tiêu cuối cùng của tế bào ung thư là duy trì sự tồn tại của nó, mặc cho cơ thể đang mang nó bị tổn hại như thế nào. Để làm được điều này, tế bào ung thư có các khả năng đặc biệt mà tế bào thường không có, bao gồm cả khả năng tồn tại khi lượng đường cung cấp cho nó cực kỳ ít. Điều này có thể giải thích cho sự thất bại của việc sử dụng các chất ngăn cản sự hình thành mạch máu trong điều trị ung thư, vì dù khối u có bị bỏ đói khi không được nuôi dưỡng bởi mạch máu thì nó vẫn có thể tiếp tục tồn tại.

    Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Quốc gia (CNIO)- Tây Ban Nha vừa công bố một bài báo trên Cancer Cell liên quan đến vấn đề này. Cụ thể là họ đã tìm ra một nhóm protein hoạt động như một công tắc: khi có đủ glucose, các tế bào ung thư sử dụng một con đường đặc biệt để biến dưỡng và tăng sinh; khi không còn glucose, công tắc này cho phép tế bào ung thư sử dụng con đường khác để biến dưỡng mà vẫn đạt mục tiêu cuối cùng là tồn tại và tăng trưởng.

    Mọi việc xảy ra trong các tế bào kể cả những tế bào ung thư và tế bào thường đều dựa vào một chuỗi các phản ứng sinh hóa: một protein được sửa đổi thông qua việc bổ sung một phân tử khác, và sự thay đổi đó gây ra sự thay đổi trong các protein khác. Nhóm nghiên cứu đã tìm ra hệ thống công tắc cho phép tế bào nhận biết sự hiện diện của glucose trong môi trường từ đó quyết định con đường biến dưỡng mà nó sẽ sử dụng để tồn tại.

    ntlhuyen 12

    Đó là một hệ thống phức tạp gồm 3 protein: URI (hoạt động như công tắc), OGT và c- Myc. C- Myc đã được biết đến như một gen sinh ung (oncogene), có tác động thúc đẩy tế bào ung thư tồn tại và tăng sinh. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng cho thấy mức độ biểu hiện c- Myc cũng rất quan trọng cho sự tồn tại của tế bào khi xảy ra stress dinh dưỡng. Hoạt động của hệ thống như sau: URI điều khiển hoạt động của OGT. OGT nhận biết và sử dụng glucose để kiểm soát nồng độ c-Myc. Khi có glucose, OGT sử dụng glucose để ồn định nồng độ c-Myc, lúc này c-Myc thực hiện tốt vai trò của mình là một gen sinh ung. Tuy nhiên khi cạn kiệt glucose, URI trở thành chất ức chế OGT, làm giảm hoạt động của protein này và giảm sự tiêu thụ glucose của nó. Điều này dẫn đến sự suy thoái c-Myc. Như vậy trong tình trạng thiếu hụt glucose, sự tồn tại của tế bào sẽ phụ thuộc vào hoạt động sinh ung của URI.

    Nghiên cứu này đã đề ra một cơ chế cảm biến glucose quan trọng trong đó URI đóng vai trò là một biến trở giúp kiểm soát hoạt động OGT, từ đó kiểm soát mức độ biểu hiện c-Myc, cho phép tế bào ung thư vượt qua stress dinh dưỡng và tồn tại trong các điều kiện môi trường ngặt nghèo nhất.

    Lam Huyên dịch

    Theo Sciencedaily

  • THÔNG BÁO SỐ 1 v/v Tổ chức cuộc thi “STEM CELL INNOVATION”- Lần 3

    TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC TỰ NHIÊN

    PTN NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC

    BTC STEM CELL INNOVATION

    ***

    Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 9 năm 2016

    THÔNG BÁO SỐ 1

    V/V Tổ chức cuộc thi “STEM CELL INNOVATION”- Lần 3

    Nhằm tạo sân chơi học tập và nghiên cứu cũng  như  kích thích khả năng sáng tạo ở các em học sinh, sinh viên yêu thích lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, y học, dược học và  các lĩnh vực có liên quan đến công ngh tế bào gốc trên toàn quốc. Phòng thí nghiệm Nghiên Cứu và Ứng Dụng Tế Bào Gốc quyết định  tổ chức cuộc thi “Stem Cell Innovation-lần 3” với các thông tin sau.

    I.          Đơn vị tổ chức: PTN Nghiên Cứu và Ứng Dụng Tế Bào Gốc, Trường ĐH Học Khoa Học Tự Nhiên, ĐHQG TP.HCM.

    II.         Thời gian: Từ 14/10 đến 26/11/2016

    III.         Địa điểm:  Trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên, ĐHQG TP.HCM

    IV.         Nội dung:

        Vòng sơ loại (trắc nghiệm online): Kiểm tra hiểu biết về tế bào gốc

        Vòng loại (đối kháng trực tiếp): Kiến thức tế bào gốc

        Vòng bán kết (đối kháng trực tiếp) : Kĩ năng tế bào gốc

        Vòng chung kết (đối kháng trực tiếp): Sáng kiến tế bào gốc 

    V.       Đối tượng dự thi:

    Tất cả học sinh, sinh viên yêu thích lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, y học, dược học và  các lĩnh vực có liên quan đến công ngh tế bào gốc trên toàn quốc.

    VI.      Đăng kí tham dự thi:

          Đăng ký thi đấu theo đội (3 thành viên/ đội)

          Đăng kí dự thi trực tuyến qua website cuộc thi: http://www.stemcellinnovation2016.com

          Thời gian đăng ký tài khoản: 19/9/2016 – 15/10/2016

    VII.   Hỗ trợ:

          Trang web ôn tập kiến thức tế bào gốc

          Những đội thi ở các tỉnh, thành phố xa sẽ được hỗ trợ 50% kinh phí di chuyển khi vào vòng bán kết , 100% kinh phí di chuyển khi vào vòng chung kết.

    VIII.   Liên hệ:

          Website: http://www.stemcellinnovation2016.com

          Fanpage: https://www.facebook.com/vinastemcelllab

          Email: stemcellinnovation.2016@gmail.com

          Điện thoại: 08 62772910

    hoặc Cô Nguyễn Thị Lam Huyên ntlhuyen@hcmus.edu.vn 01694288180

    BTC CUỘC THI

    “STEM CELL INNOVATION-LẦN 3”

  • Sức khỏe kém của cừu Dolly có thể không phải do nhân bản

    Bốn con cừu được nhân bản từ cùng một nguyên mẫu của cừu Dolly hiện nay đều có sức khỏe tốt. Điều này cho thấy bệnh viêm xương khớp xảy ra ở cừu Dolly có thể không phải do nhân bản.

    Debbie, Denise, Dianna và Daisy đều được nhân bản vô tính, sử dụng tế bào từ cùng một con cừu trưởng thành giống như Dolly, động vật có vú đầu tiên được nhân bản vô tính thành công cách đây 20 năm. Đến thời điểm hiện tại, bốn “chị em” đã được chín tuổi và tất cả đều khoẻ mạnh.

    dtlong 7

    Các chị em của cừu Dolly

    Dolly và chị em của nó đã được tạo ra bằng cách sử dụng một kỹ thuật gọi là chuyển nhân tế nào sinh dưỡng (Somatic cell nuclear transfer – SCNT), trong đó, nhân từ tế bào trưởng thành được đưa vào trứng đã loại bỏ nhân. Để tạo ra một mình Dolly, Ian Wilmut và nhóm của ông tại Viện Roslin ở Edinburgh, Vương quốc Anh, đã phải áp dụng kỹ thuật này với 277 trứng. Kết quả chỉ có 29 phôi được cấy vào cừu mẹ mang thai hộ, cuối cùng, chỉ có cừu Dolly được sinh ra.

    Vào năm 2001, cừu Dolly bị viêm xương khớp khi được khoảng 5 tuổi. Đến gần 7 tuổi, các nhà khoa học phải thực hiện gây chết nhân đạo đối với Dolly khi cô cừu này phát triển thêm bệnh phổi. “Một trong những mối quan tâm vào thời gian đầu là động vật nhân bản vô tính bị lão hóa trước khi trưởng thành”, Kevin Sinclair tại Đại học Nottingham nói.

    Điều này khiến nhóm nghiên cứu của ông tiến hành điều tra sự lão hóa ở các động nhân vô tính khác. Họ đã theo dõi và ghi nhận các chỉ số huyết áp, độ nhạy insulin, sức khỏe cơ xương và các đặc điểm khác ở một đàn 13 con cừu nhân bản vô tính, trong đó có “chị em” của Dolly. “Chúng tôi thấy rằng khi so sánh với độ tuổi, các con vật nhân bản của chúng tôi khá khỏe mạnh.”

    Các nhà nghiên cứu cho biết, khi so sánh 13 con cừu được nhân bản với cừu sinh sản tự nhiên ở cùng độ tuổi, một số cá thể cho thấy dấu hiệu của viêm xương khớp nhẹ hoặc vừa phải, không có con nào gặp tình trạng nghiêm trọng cần phải điều trị,.

    https://youtu.be/qFlht1YCptw

    Nhân bản có thể trở thành kỹ thuật đáng trông đợi cho tương lai

    Sinclair nói rằng bởi vì kỹ thuật SCNT chưa thật sự hiệu quả nên một số nhóm vẫn đang nghiên cứu để cải thiện kỹ thuật này. “Nếu như thành công, điều này có thể dẫn đến viễn cảnh thực tế sử dụng SCNT để tạo ra tế bào gốc cho mục đích điều trị trên người”, Sinclair nói. “Tuy nhiên, để các phương pháp sinh học này có thể được sử dụng trong tương lai, chúng ta cần phải tiếp tục kiểm tra tính an toàn của chúng.”

    Đặng Thanh Long

    Theo New Scientist

  • THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG ĐẦU TIÊN TRÊN THẾ GIỚI VỚI TẾ BÀO iPS Ở NGƯỜI ĐƯỢC PHÊ DUYỆT

    Chính phủ Nhật đã ký quyết định cho phép thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trên thế giới sử dụng tế bào gốc vạn năng cảm ứng (iPS) được lấy từ cơ thể bệnh nhân.

    Bộ trưởng Bộ Y tế Norihisa Tamura đã phê duyệt đề xuất của hai viện nghiên cứu, cho phép họ bắt đầu thử nghiệm điều trị bệnh thoái hóa điểm vàng do lão hóa một bệnh gây mù lòa phổ biến ở người già, bằng sử dụng tế bào iPS.

    Một ngày nào đó, nghiên cứu về tế bào gốc kì vọng có thể điều trị được những bệnh hiện chưa điều trị được, và các nhà khoa học mong rằng thử nghiệm lâm sàng trong điều bệnh thoái hóa điểm vàng có thể mang lại hy vọng cho hàng triệu người không thấy ánh sáng.

    Một ủy ban chính phủ tháng trước đã phê duyệt đề xuất thử nghiệm phối hợp thực hiện bởi Trung tâm Sinh Học Phát Triển- Riken và Tổ Chức Nghiên Cứu và Sáng Tạo Y sinh, ở Kobe.

    Một phát ngôn viên cho biết: “Viện Riken sẽ thu tế bào gốc từ tế bào da của bệnh nhân. Sau đó, sẽ cố gắng tạo ra các tế bào võng mạc để thử nghiệm cấy ghép trên sáu bệnh nhân, thay thế phần hư hỏng của mắt. Việc cấy ghép có thể được thực hiện sớm nhất vào giữa năm tới tại bệnh viện của tổ chức này”.

    Thoái hóa điểm vàng do lão hóa là bệnh hiện nay không chữa trị được, ảnh hưởng chủ yếu ở tuổi trung niên và người già, nó có thể dẫn đến mù lòa. Nhật Bản có khoảng 700.000 người mắc căn bệnh này.

    Tế bào gốc ở giai đoạn sơ sinh có thể phát triển thành bất kỳ bộ phận nào của cơ thể. Cho đến khi Shinya Yamanaka, Đại học Kyoto có phát hiện đột phá về tế bào iPS vào năm 2006, thì cách duy nhất để có được tế bào gốc là thu nhận chúng từ phôi người. Điều này dẫn tới những phản đối vì nó sẽ hủy hoại phôi người.

    Giống như các tế bào gốc phôi, tế bào iPS cũng có khả năng phát triển thành bất kỳ tế bào nào trong cơ thể, và quan trọng là nguồn tế bào để tạo ra chúng luôn sẵn có.

    Yamanaka đã đạt được giải thưởng Nobel về sinh lý học và y học năm ngoái cho thành công của ông về phát hiện ra phương pháp tạo tế bào iPS từ tế bào da người trưởng thành vào năm 2006.

    lvtrinh 35

    Hình minh họa: chiến lược sử dụng iPS cho điều trị bệnh mù do thoái hóa điểm vàng, thu nhận tế bào da của bệnh nhân và tái thiết lập nó thành tế bào iPS, biệt hóa iPS thành tế bào sắc tố và cấy ghép trở lại cho bệnh nhân (http://japan-product.com/ads/japan-worlds-1st-surgery-ips-stem-cells/)


                                                                                   LÊ VĂN TRÌNH – LÊ THỊ THU THÚY dịch

                                                                                     Theo japantimes.co.jp

    Địa chỉ email: lvtrinh@hcmus.edu.vn thuybt1995@gmail.com

  • Loạt bài: Em bé đầu tiên được sinh ra từ trứng được tăng cường nhờ tế bào gốc

    Kỳ cuối: Thực sự có hiệu quả và dễ được chấp nhận

    Năm 2001, Jacques Cohen tại Viện Y học và Khoa học Sinh sản tại Saint Barnabas, New Jersey, đã tiêm ti thể từ trứng hiến tặng vào 30 trứng của những bà mẹ vô sinh, một thủ thuật được gọi là Kỹ thuật chuyển tế bào chất trứng (ooplasmic transfer). Thực tế, điều này dẫn đến một số ít trường hợp có thai được coi là bằng chứng hỗ trợ cho phương pháp Augment. “Những báo cáo lâm sàng được công bố từ nhiều phòng khám IVF trên toàn thế giới cho thấy rằng, việc sử dụng ti thể từ trứng hiến tặng của những phụ nữ trẻ hơn cải thiện đáng kể tỉ lệ thành công của kỹ thuật IVF”, OvaScience nói với tạp chí New Scientist. “Hơn 50 đứa trẻ đã được sinh ra từ kỹ thuật này. Chúng hiện đang ở tuổi thiếu niên hoặc gần 20 tuổi”.

    dtlong 6

    Một phương pháp mới sẽ mang lại hy vọng cho rất nhiều bệnh nhân

    Trong trường hợp của Cohen, các nghiên cứu đã bị tạm dừng bởi vì những đứa trẻ mang thêm ti thể từ người hiến tặng. Điều này dẫn đến một làn sóng phản đối vì những đứa trẻ này có đến 3 cha mẹ.

    Cả hai kỹ thuật chuyển tế bào chất trứng và Augment có một số điểm tương đồng chính là liệu pháp thay thế ty thể, một phương pháp thụ tinh ống nghiệm mới đang gây tranh cãi vừa được phê duyệt bởi chính phủ Anh. Đối với kỹ thuật chuyển tế bào chất trứng, tuy em bé được sinh ra mang DNA từ ba người cha mẹ, nhưng vẫn được phê duyệt bởi vì nó được sử dụng để điều trị các bệnh di truyền liên quan tới ti thể. Bằng cách đưa vào trứng những ti thể bình thường từ người thứ 3, đứa trẻ sinh ra sẽ không mắc các bệnh liên quan đến ti thể bị di truyền từ mẹ của mình.

    Đó là trường hợp gây tranh cãi của kỹ thuật chuyển tế bào chất trứng, điều mà phương pháp Augment sẽ không gặp phải. Trong phương pháp Augment, các ty thể từ tế bào gốc buồng trứng của người mẹ được sử dụng mà không phải từ người hiến tặng thứ 3. Như vậy, trẻ sinh ra vẫn chỉ có hai cha mẹ như các trường hợp bình thường.

    Đặng Thanh Long

    Theo New Scientist

  • CƠ CHẾ MỚI VỀ SỰ DI CĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

    khối u

    Ung thư thường gây nguy hiểm và đe dọa tính mạng con người khi chúng đã bắt đầu di căn- các tế bào ung thư từ khối u nguyên phát theo dòng máu đi đến những vị trí khác trong cơ thể và tiếp tục phát triển tại đó. Để làm được điều này, các tế bào ung thư phải đi xuyên qua thành mạch để vào và ra khỏi mạch máu. Các nhà khoa học thuộc viện nghiên cứu tim phổi Max Planck, Bad Nauheim và đại học Goethe, thành phố Frankfurt, Đức vừa công bố phát hiện mới của mình, cho thấy các tế bào ung thư có thể tiêu diệt các tế bào đặc biệt trên thành mạch để đi xuyên qua mạch dễ dàng. Quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi phân tử DR6.

    Để có được kết quả trên, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nuôi cấy tế bào và theo dõi cách mà các tế bào ung thư tiêu diệt tế bào nội mô- một loại tế bào của thành mạch. Quá trình này được gọi là necroptosis, cho phép các tế bào ung thư vượt qua lớp tế bào nội mô in vitro, thử nghiệm trên chuột cũng cho kết quả tương tự.

    Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các tế bào nội mô tự đưa ra tín hiệu cho cái chết của mình: “Tế bào nội mô biểu hiện thụ thể chết DR6, thụ thể này được kích hoạt bởi protein APP trên bề mặt tế bào ung thư, đánh dấu sự bắt đầu cuộc tấn công của tế bào ung thư lên thành mạch và đỉnh điểm của cuộc chiến là quá trình necroptosis của các tế bào nội mô.”- ông Boris Strilic, tác giả chính của bài báo cho biết.

    Nhóm tác giả cũng cho thấy ở chuột đột biến mất thu thể DR6, quá trình necroptosis ở tế bào nội mô và di căn của tế bào ung thư xảy ra ít hơn. Hiệu ứng này cũng xảy ra khi thụ thể DR6 của tế bào nội mô hoặc protein APP của tế bào ung thư bị bất hoạt, khẳng định một lần nữa vai trò của hai phân tử này trong sự di căn của tế bào ung thư.

    Việc tìm ra cơ chế này mở ra một hướng đi mới cho điều trị ung thư thông qua việc ngăn chặn qua trình di căn. Tuy nhiên trước khi quyết định sử dụng liệu pháp bất hoạt thụ thể DR6 cần phải xem xét các tác dụng phụ có thể gây ra và thực hiện nhiều nghiên cứu hơn nữa trước khi đưa vào lâm sàng.

    Lam Huyên dịch

    Theo Sciencedaily

  • Loạt bài: Em bé đầu tiên được sinh ra từ trứng được tăng cường nhờ tế bào gốc

    Kỳ 2: Cần nhiều nghiên cứu hơn để chứng minh hiệu quả và tính an toàn

    Thật khó để rút ra bất kỳ kết luận nào từ những thông tin trong thời gian gần đây. Thông cáo báo chí của công ty OvaScience nói rằng “Bước đầu ghi nhận các kết quả tốt của thai kỳ sau điều trị”.

    Tạp chí Time báo cáo rằng có 36 phụ nữ thuộc 4 quốc gia đã tham gia thử nghiệm kỹ thuật này, 8 trường hợp trong số đó đã mang thai. Tạp chí này cũng cho hay, tuy không có thử nghiệm lâm sàng chính thức nào nhưng OvaScience đang có kế hoạch thực hiện 1000 ca IVF-Augment trên toàn thế giới trong năm nay, một phần là để thuyết phục Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (US Food and Drug Administration) phê duyệt việc điều trị ở Mỹ .

    Mặc dù quá trình điều trị cho thấy có hiệu quả đối với gia đình Rajani khi mà IVF truyền thống thất bại, chúng ta cũng không biết chắc chắn rằng sự tồn tại của bé Zain có phải do phương pháp Augment hay không. “Tuy thực tế là đã có một em bé được sinh ra, nhưng không thể chứng minh rằng công nghệ mà họ sử dụng là lý do duy nhất cho sự thành công này.”, Adam Balen, một giáo sư về Y học Sinh sản tại Leeds Teaching Hospitals NHS Trust ở Anh và là chủ tịch của Hội Sinh sản Anh, nói.

    dtlong 5

    Cần chứng minh tính hiệu quả và an toàn

    Khi tạp chí New Scientist liên lạc với OvaScience, công ty này nói rằng: “Bằng chứng cho hiệu quả của phương pháp Augment có thể dựa trên bệnh sử của người mẹ, bao gồm việc thất bại khi thực hiện chu kỳ IVF trước đó do chất lượng phôi rất kém, cũng như những chẩn đoán của bác sĩ”.

    “Thêm những trường hợp bệnh nhân tiên lượng kém đã mang thai ở tất cả các phòng khám được cung cấp phương pháp điều trị này.”

    Các nhà nghiên cứu sinh sản độc lập suy nghĩ gì?

    Balen và những người khác mà chúng tôi đã liên lạc đưa ra các trích dẫn cho thấy rằng việc thêm ti thể mới giúp làm trẻ hoá trứng chưa từng được chứng minh. “Lý do trứng lão hoá ít khả năng được thụ tinh hơn là bởi vì chúng không có sự toàn vẹn để trải qua phân bào theo đúng trật tự, dẫn tới sự mất cân bằng nhiễm sắc thể.”, Balen nói. “Chưa có nghiên cứu nào chứng minh ty thể từ trứng chưa trưởng thành có thể khắc phục điều này.”

    “Còn thiếu nhiều bằng chứng về tính hiệu năng, hiệu quả và an toàn”, Alison Murdoch thuộc Đại học Newcastle, Anh nói. “Vấn đề ở phụ nữ lớn tuổi là chất lượng của bộ gen trong trứng của họ, và việc thêm nhiều ti thể sẽ không giúp vấn đề đó”, bà nói. “Ngoài ra, những thao tác với phôi ở thời điểm nhạy cảm như vậy có thể gây ra nhiều vấn đề hơn cho bộ gen, đó là lý do tại sao dữ liệu chứng minh tính an toàn là rất quan trọng.”

    Đặng Thanh Long

    Theo New Scientist

  • SỰ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TẾ BÀO T THÔNG QUA PD-1: CHÌA KHÓA CHO LIỆU PHÁP MIỄN DỊCH UNG THƯ

    lmphong 2

    Hình. Lách của chuột bị nhiễm LCMV. Quần thể các tế bào T đáp ứng PD-1 là CD8+ và TCF1+ và do đó xuất hiện màu vàng.


    Ngày nay, các nhà khoa học từ Trung Tâm Vaccine Emory đã tìm ra cách phục hồi chức năng của tế bào T thông qua các phân tử đặc trưng từ các quần thể tế bào T, đặc biệt nhất là phân tử PD-1.

    Các nhà nghiên cứu mong đợi khám phá của họ sẽ có giá trị trong điều trị tối ưu với các thuốc mục tiêu nhắm vào PD-1. Các thử nghiệm được thực hiện trên chuột nhiễm virut mãn tính, mà trong đó các tế bào T bị mất chức năng bởi phân tử ức chế miễn dịch PD-1.

    Kết quả được công bố trên Nature.

    Các thuốc mục tiêu nhắm vào PD-1 chẳng hạn như nivolumab, pembrolizumab và atezolizumab là một loại thuốc được biết như chất ức chế kiểm soát, và nhiều nhà nghiên cứu ung thư hiện nay đang cố gắng tìm ra cách để tăng cường hoạt động của chúng bằng cách kết hợp chúng với của các loại thuốc khác.

    Với hơn một thập niên qua, Ahmed và các cộng sự cho thấy hệ thống miễn dịch của chuột nhiễm virut mãn tính hoàn toàn không hoạt động, hoặc “mất chức năng” các tế bào T kháng virut. Các tế bào T này cho thấy mức độ biểu hiện cao PD-1, và hoạt động kháng virut có thể được phục hồi lại nếu có sự tương tác PD-1 với phối tử của nó (PD-L1).

    Trong nghiên cứu này, các tác giả chứng minh đối với những con chuột bị nhiễm virut mãn tính với các tế bào T kháng virut đã mất chức năng có thể được chia thành hai lô. Một lô các tế bào T trãi qua sự tăng sinh khi chuột nhiễm virut được cho kháng thể khóa PD-1, và một nhóm tế bào T khác thiếu khả năng tăng sinh khi không có kháng thể khóa PD-1.

    Ngay cả trước khi có các kháng thể khóa PD-1, sự mở rộng tăng sinh của các tế bào T đặc hiệu virut phân chia với tốc độ chậm. Tuy nhiên, các tế bào này chỉ xuất hiện trong các cơ quan lympho (hạch lympho và lách), và không lưu thông xuyên suốt cơ thể. Sau khi PD-1 được khóa, các tế bào T bắt đầu phân chia và biệt hóa thành các tế bào đặc hiệu di cư đến các mô nhiễm.

    Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng cho thấy một gen điều hòa phiên mã TCF1 đóng vai trò quan trọng trong sự tạo ra và duy trì của tế bào T biểu hiện PD-1 trên chuột bị nhiễm virut mãn tính. Các tế bào T này có các phân tử đặc trưng giống với tế bào T nhớ hoặc giống với tế bào gốc, trong khi các tế bào T bình thường không có đặc điểm này.

    Trong sự cộng tác với các nhà nghiên cứu ở Viện Ung thư Winship của trường Đại học Emory, phòng thí nghiệm của Ahmed đang tìm các tế bào miễn dịch với các đặc trưng tương tự trên các bệnh nhân ung thư. Có thể nhóm các tế bào T có khả năng phục hồi lại có thể được tìm thấy trong sự tương tác với khối u, hoặc có lẽ nhiều khả năng trong các hạch bạch huyết gần đó góp phần trong điều trị ung thư hiện nay.

    Minh Phong dịch

    Theo ScienceDaily

    Email: lmphong@hcmus.edu.vn

  • Loạt bài: Em bé đầu tiên được sinh ra từ trứng được tăng cường nhờ tế bào gốc

    Kỳ 1: Sự cải tiến kỹ thuật IVF

    Zain Rajani được gọi là “Em bé tế bào gốc” đầu tiên trên thế giới. Zain được sinh ra vào đầu tháng 4/2015 tại Canada, sau khi cha mẹ bé quyết định thực hiện một loại kỹ thuật IVF mới (Thụ tinh trong ống nghiệm), với tên gọi Augment (Tăng cường). Mục đích của quy trình này là nâng cao chất lượng trứng của người phụ nữ bằng cách tiêm vào tế bào trứng ti thể lấy từ tế bào gốc buồng trứng.

    dtlong 4

    Zain và cha mẹ

    Một số báo cáo trên các phương tiện truyền thông nói rằng đây là bước đột phá nhằm thúc đẩy những bước tiến lớn tiếp theo trong kỹ thuật IVF. Tuy vậy, vẫn còn nhiều hoài nghi về sự tồn tại cũng như chức năng của tế bào gốc buồng trứng.

    Phụ nữ được sinh ra với số lượng trứng nhất định và sẽ giảm dần theo thời gian. Đó là những gì chúng ta được học cho đến một vài năm trước đây, khi một nhóm tại Bệnh viện Massachusetts ở Boston phát hiện ra tế bào gốc nằm ẩn trong niêm mạc bảo vệ của buồng trứng, các tế bào này có khả năng phát triển và tạo ra những trứng mới. Phát hiện này dẫn đến giả thuyết rằng trứng mới có thể được sản xuất trong suốt đời sống và đây là nguồn trứng vô hạn cho phương pháp điều trị IVF. Từ đó, ý tưởng trẻ hóa trứng đã có sẵn cũng bắt đầu được nghiên cứu.

    Nhóm nghiên cứu phát hiện ra hiện tượng này được dẫn đầu bởi Jonathan Tilly, người mà sau đó hợp tác với OvaScience, chính là công ty công bố sự ra đời của Zain vào ngày 7 tháng 5 năm 2015.

    Điểm mấu chốt của phương pháp này chính là ti thể (nhà máy năng lượng của tế bào) ở các tế bào trẻ, nguyên thủy hoạt động tốt hơn nhiều so với những ti thể trong trứng trưởng thành, loại trứng thường được sử dụng cho kỹ thuật IVF. Trong phương pháp Augment, các nhà nghiên cứu thu nhận ti thể từ tế bào gốc của người phụ nữ và tiêm chúng vào trứng trưởng thành của chính những người đó, điều này cho thấy sự cải thiện rõ rệt chất lượng trứng của họ. Trong thông cáo báo chí của mình, OvaScience nói: “Phương pháp điều trị này được thiết kế để cải thiện chất lượng trứng bằng cách tăng mức năng lượng trong trứng, thúc đẩy sự phát triển phôi sau này.”

    Đặng Thanh Long

    Theo New Scientist