Category: Tin PTN Tế bào gốc

  • KHÁM PHÁ RA CÔNG THỨC THUỐC MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ

    Các nhà hóa học đã xác định được cấu trúc chính xác của hợp chất chống ung thư được Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân ung thư. Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học cho thấy cấu trúc của TIC10 khác biệt hẳn so với cấu trúc của một hợp chất khác được công bố bởi một nhóm nghiên cứu khác vào năm ngoái. Điều thú vị là cấu trúc giống với TIC10 được công bố trước đó lại không có hoạt tính chống ung thư.

    1.2

    Cấu trúc đúng của hợp chất TIC10, có hoạt tính sinh học trong điều trị ung thư

    Các nhà hóa học tại Viện nghiên cứu Scripps (TSRI) đã xác định cấu trúc chính xác của một hợp chất chống ung thư đầy hứa hẹn sự chấp thuận của thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA ) cho thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân ung thư.

    Nghiên cứu này vừa được công bố trên tạp chí hóa học quốc tế Angewandte Chemie một hợp chất có tên là TIC10 vào tuần qua. Trong nghiên cứu mới này, các nhà khoa học TSRI đã chỉ ra rằng cấu trúc của TIC10 khác biệt cơ bản so với một hợp chất tương tự đã được công bố trước đó. Nhưng cấu trúc tương tự với TIC10 đã công bố lại được cho là không có khả năng chống ung thư.

    Ngược lại, cấu trúc TIC10 lại có khả năng chống ung thư hiệu quả trên mô hình động vật. Khám phá này cho thấy đây là một cấu trúc có hoạt tính sinh học tiềm năng có thể được ứng dụng để thử nghiệm điều trị ung thư lâm sàng. “Hợp chất mới này sẽ tạo ra một sự quan tâm mạnh mẽ cho cộng đồng nghiên cứu ung thư” giáo sư Kim D. Janda thuộc Trung tâm nghiên cứu TSRI phát biểu.

    Tiềm năng kháng ung thư

    TIC10 được công bố đầu tiên trên tạp chí Science Tranlational Medicine vào đầu năm 2013. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hợp chất này trong thư viện chứa hàng ngàn hợp chất tại Viện nghiên cứu ung thư Quốc gia (NCI). Hợp chất này có khả năng kích thích tế bào sản xuất một loại protein TRAIL chống ung thư mạnh (TIC10 có nghĩa là TRAIL-Inducing Compound #10).

    Vì là phân tử nhỏ, TIC10 sẽ dễ dàng được sử dụng vào trong các liệu pháp điều trị hơn là sử dụng chính protein TRAIL. Các báo cáo cho thấy rằng TIC10 có hoạt tính rất mạnh và có khả năng làm giảm nhiều loại khối u ở chuột, bao gồm cả ung thư nguyên bào thần kinh đệm glioblastoma được cho ra rất khó điều trị.

    Ung thư có thể phát triển để kháng lại TRAIL nhưng Janda đã nghiên cứu một hợp chất có khả năng chống lại sự kháng thuốc này. Thông tin mới nhất từ TIC10 được Janda cho biết “Chúng tôi đã tạo ra được phân tử điều hòa hoạt động của TRAIL và chúng tôi có những phân tử có thể chống lại sự kháng thuốc của tế bào ung thư, sự kết hợp là rất quan trọng”.

    Công bố đầu tiên về TIC10 bao gồm cả hình ảnh cho thấy có thể dự đoán cấu trúc của nó. “Chúng tôi thấy hình ảnh này và yêu cầu một trong các nghiên cứu của chúng tôi, Jonathan Lockner, thiết kế một vài cái” Janda chia sẻ. Các nhóm nghiên cứu thường xác định các cấu trúc được dự đoán bằng kỹ thuật khối phổ, hiện tại vân chưa có công bố nào về đặc tính phân tử của TIC10. “Chưa có những dữ liệu về cộng hưởng từ hạt nhân hoặc tinh thể X-ray, vậy nên không có quy trình để tổng hợp” Lockner nói. “Chuyên môn của chúng tôi là ngành hóa học và chúng tôi có thể tổng hợp chúng từ các hợp chất đơn giản”.

    Cấu trúc ban đầu mà Lockner và cộng sự tổng hợp đã không cho kết quả như mong muốn. Khi thử nghiệm, hợp chất TIC10 đã không kích thích các tế bào sản xuất TRAIL, ngay cả ở nồng độ cao. “Dĩ nhiên, chúng tôi thật sự sốc, là một nhà hóa học chắc bạn không muốn tạo ra một hóa chất không có tác dụng gì và giao cho các nhà sinh học” Lockner nhớ lại.

    Sau nhiều tháng nỗ lực nghiên cứu, Lockner và cộng sự đã tìm ra cấu trúc đúng của TIC10 có hoạt tính sinh học. Các thử nghiệm cuối cùng đã đưa ra kết luận: cấu trúc mới của hợp chất TIC10 có khả năng kích thích tế bào sản xuất protein TRAIL và là hợp chất tiềm năng cho điều trị ung thư.

    Hiện tại, với cấu trúc đúng của TIC10 và những sự hiểu biết chính xác về cấu trúc, cách tổng hợp hợp chất này, Janda, Lockner và các đồng nghiệp tiếp tục nghiên cứu khả năng điều trị ung thư của TIC10 khi kết hợp với các phân tử cản trở sự kháng protein TRAIL.

    VNN

    (Theo Science Daily)

  • CÁC TẾ BÀO UNG THƯ TUẦN HOÀN – BIOMARKER MỚI CHO UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT

    Ở Mỹ, ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư phổ biến nhất và gây tử vong đứng hàng thứ hai ở nam giới. Ước tính năm 2014 sẽ có 29480 trường hợp tủ vong do bệnh này gây nên. Trong những năm gần đây, liệu pháp kiểm soát sự di căn sau khi phẫu thuật tuyến tiền liệt (metastatic castration-resistant prostate cancer – mCRPC) kết hợp với nhiều liệu pháp hỗ trợ khác đã được FDA phê duyệt. Việc kiểm soát sự di và định lượng tế bào ung thư đề kháng sau khi phẫu thuật tuyến tiền liệt gặp nhiều khó khăn vì các tế bào này thường di căn đến xương. Hơn nữa, các phương pháp hiện tạị như dựa vào các dấu ấn sinh học (biomarkers) và hình ảnh chẩn đoán lâm sàng cho kết quả không hiệu quả. Mặc dù kháng nguyên chuyên biệt ung thư tuyến tiền liệt (prostate-specific antigen – PSA) được sử dụng để chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt. Nhưng kháng nguyên này không đưa ra chẩn đoán chính xác trong trường hợp mCRPC. Vì thế các phương pháp mới, biomarker mới để chẩn đoán ung thư di căn cần được phát triển.

    Các tế bào ung thư tuần hoàn (circulating tumor cells – CTC) là quần thể tế bào ung thư hiếm gặp, được bắt nguồn từ khối u nguyên phát hoặc khối u di căn và xâm nhập và máu ngoại vi. Các nghiên cứu chứng minh rằng CTC là tế bào khối u bị biến đổi di truyền và là mục tiêu cho chẩn đoán bệnh ung thư. Trong các loại ung thư khác, sinh thiết ung thư được thực hiện trước và sau khi áp dụng các liệu pháp điều trị để đánh giá hiệu quả điều trị và xác định liệu pháp điều trị thích hợp. Tuy nhiên, ung thư tuyến tiền liệt thường di căn đến xương nên sinh thiết xương gây đau đớn cho bệnh nhân. Vì thế, chẩn đoán dựa vào CTC là phương pháp ít xâm lấn, có thể lặp lại nhiều lần, chính xác và cho biết đặc tính phân tử của khối u trong suốt quá trình điều trị. Tuy nhiên, CTC rất hiếm, chiếm tỉ lệ khoảng 1/109 trong máu bình thường nên việc xác định các tế bào này trong máu ngoại vi là một thách thức lớn. Trong bài này giới thiệu một số vấn đề còn tồn tại trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các phương pháp xác định CTC trong ung thư tuyến tiền liệt.

    Các phương pháp để xác định ung thư tuyến tiền liệt

    Ung thư tuyến tiền liệt thường di căn đến xương và hạch lympho. Di căn đến xương thường gặp với tỉ lệ 90% ở bệnh nhân ung thư tuyến liệt giai đoạn cuối và là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh này. Tiêu chuẩn để đánh giá ung thư và di căn của ung thư tuyến tiền liệt là dựa vào hình ảnh chụp cắt lớp CT-99mTc-MDP ở bụng và xương chậu để đánh giá các hạch lympho và xương. Phương pháp mRECIST cũng được sử dụng để chẩn đoán bệnh này. Chụp cắt lớp PET sử dụng các đồng vị phóng xạ 18F-FDG, 18F-NaF, 11C- ngày càng được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu về ung thư tuyến tiền liệt.

    Chẩn đoán dựa vào nồng độ của PSA được sử dụng phổ biến để xác định ung thư tuyến tiền liệt. Nhưng sau khi sử dụng các liệu pháp điều trị, chẩn đoán dựa vào PSA không có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Thật vậy, không có một khuyến cáo nào cho việc đánh giá hiệu quả của điều trị ung thư tuyến tiền liệt dựa vào mức độ giảm của PSA. Vì thế, một biomarker mới cho theo dõi tình trạng bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt là cần thiết.

    Việc phát hiện các DNA, RNA từ tế bào khối u chứa trong huyết tương và huyết thanh của bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt đã mở ra hướng mới cho việc chẩn đoán sự di căn của tế bào ung thư. Những tế bào ung thư bị chết hay các mô ung thư hoại tử sẽ giải phóng các vật liệu di truyền này và tuần hoàn trong máu. Nguyên tắc để xác định các vật liệu di truyền tuần hoàn trong máu này là dựa vào độ nhạy cao của phương pháp PCR. Nhưng hạn chế chính là không thể phân lập được acid nucleic từ khối u tuần hoàn trong máu.

    Các phương pháp để xác định CTC

    Sự tồn tại của CTC ở bệnh nhân bị ung thư giai đoạn di căn được báo cáo đầu tiên vào năm 1869. Các tế bào này rất khó thu nhận để nghiên cứu và chúng xuất hiện với tần suất cực kỳ thấp 1/109 tế bào máu bình thường. Dù vậy, với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phát triển của sinh học hơn hai thập kỷ qua cho phép phát hiện CTC với độ chính xác cao. Các phương pháp phát hiện CTC dựa vào đặc điểm sinh học hay đặc tính tự nhiên của tế bào để phát hiện chúng.

    1.1

    Các chiến lược phát hiện CTC. CTC có thể được làm giàu từ mẫu máu ngoại vi dựa vào các đặc tính sinh học và đặc tính tự nhiên của chúng, hoặc có thể được phân tích trực tiếp từ mẫu máu đã ly giải hồng cầu thông qua phương pháp xử lý hình ảnh chất lượng cao. Phân lập CTC dựa vào đặc tính sinh học có thể được thực hiện bằng phương pháp chọn lọc dương hoặc âm nhờ vào kháng nguyên chuyên biệt trên bề mặt tế bào khối u; khả năng sống của tế bào và kiểu hình. Các chiến lược phân lập CTC dựa vào các đặc tính tự nhiên của tế bào như tỷ trọng, kích thước, độ tích điện.

    Phân lập CTC dựa vào kháng nguyên bề mặt: hai chiến lược chính phát hiện CTC dựa vào kháng nguyên bề mặt được nghiên cứu. Phương pháp chọn lọc dương: các marker chuyên biệt bề mặt CTC được sử dụng để tách chúng ra khỏi các tế bào máu bình thường. Các marker chuyên biệt này thường được sử dụng như EpCAM. Phương pháp chọn lọc âm: sử dụng các marker chuyên biệt bề mặt các tế bào bạch cầu để loại bỏ các tế bào miễn dịch này ra khỏi máu, hỗn hợp còn lại sẽ chứa CTC.

    Phân lập CTC dựa vào hạt từ tính miễn dịch: nguyên tắc cơ bản của phương pháp này là dựa vào kháng thể kháng EpCAM gắn hạt từ tính để bắt giữ các CTC. Sau đó, các tế bào này được chọn lọc dương với CK (cytokeratin)-8, CK-18, CK-19 hoặc chọn lọc âm với CD45 bằng phương pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang. Ngoài ra, marker Cadherin-11 được sử dụng kết hợp với EpCAM để xác định CTC trong quá trình chuyển dạng từ biểu mô sang trung mô.

    Phân lập CTC bằng microfluidic devices: nguyên tắc của phương pháp này là máu ngoại vi sẽ được dẫn qua một hệ thống vi ống. Trên bề mặt của hệ thống vi ống đó có gắn kháng thể kháng EpCAM, cho phép bắt giữ các CTC biểu hiện EpCAME. Chiến lược này được các nhà khoa học ở Bệnh viện tổng hợp Masachusetts nghiên cứu và phát
    triển.

    Phân lập CTC dựa vào các đặc tính sinh học khác: các phương pháp này dựa vào sự xâm lấn và khả năng tiết ra các protein chuyên biệt của CTC. Ví dụ như phương pháp ELIPOST (enzyme-linked immunosorbent spot) cho phép phát hiện PSA trong dịch nuôi cấy có chứa CTC (24-48 h). Tương tự, các CTC được xác định dựa vào khả năng xâm lấn vào lớp nền collagen khi nuôi cấy trên hệ thống cell-adhesion matrix Vita assay (Vitatex, USA).

    Phân lập CTC dựa vào các đặc tính tự nhiên của tế bào: dựa vào một số đặc tính tự nhiên của CTC khác biệt so với tế bào máu ngoại vi bình thường như tỷ trọng, kích cỡ, độ dẫn điện… một số phương pháp được phát triển để phân lập CTC. Sau khi được làm giàu bằng các phương pháp trên, các CTC được xác định bằng các pháp hóa mô miễn dịch huỳnh quang, miễn dịch huỳnh quang hay các kỹ thuật sinh học phân tử như PCR. Ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, phương pháp vi lọc được sử dụng để thu nhận các CTC có kích thước lớn hơn tế bào lympho, nghĩa là các lỗ lọc được thiết kế sao cho các CTC được giữ lại và các tế bào lympho sẽ lọt qua. Ví dụ như kỹ thuật ISET (phân lập tế bào ung thư biểu mô dựa vào kích thước) (RARECELLS, France) cho phép phân lập các tế bào với đường kính lỗ lọc 8 um. Sau đó, các tế bào này sẽ được xác định bằng phương pháp hóa tế bào miễn dịch huỳnh quang.

    Bên cạnh các phương pháp thoi dõi, đánh giá hiệu quả điều trị đối với bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt như chẩn đoán dựa vào hình ảnh, xét nghiệm PSA, sinh thiết kiểm tra di căn ở xương. Các phương pháp phát hiện CTC và phân lập CTC với độ chính xác cao cho phép tầm soát bệnh ung thư tuyến tiền liệt hiệu quả hơn, từ đó đề ra các phác đồ điều trị thích hợp hơn cho bệnh nhân. Trong tương lai có thể CTC là một biomarker mới trong việc chẩn đoán, điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

    VNN

    Tài liệu thak khảo: David T. Miyamoto, Lecia V. Sequist and Richard J. Lee Circulating tumour cells—monitoring treatment response in prostate cancer

     

  • Điều trị các bệnh thoái hóa thần kinh bằng phương pháp miễn dịch

    Các nhà khoa học ở Moscow vừa thực hiện đánh giá hiệu quả kháng bệnh thoái hóa thần kinh của một phương pháp mới. Theo đó, bệnh Parkinson có thể được điều trị với sự hỗ trợ của các tế bào miễn dịch như Đại thực bào. Các tế bào này có thể xuyên qua hàng rào máu não, bằng cách này, các nhà khoa học đã tìm cách gắn các nhóm chất chống oxy hóa lên chúng và đưa vào vùng viêm trong não.

    22-1-2014

    Các hạt nano mang gốc chống oxy hóa được gắn lên đại thực bào,
    kèm theo các tín hiệu để không bị chính đại thực bào tiêu diệt.

    Các bệnh thoái hóa thần kinh thường rất khó chữa do não được bảo vệ khỏi các yếu tố bên ngoài nhờ hàng rào máu não, một cấu trúc tế bào ngăn cách mô thần kinh trung ương khỏi hệ tuần hoàn. Thử thách khó khăn nhất trong điều trị các rối loạn ở não chính là việc đưa thuốc hoặc tác nhân hóa học vào các vùng chuyên biệt trong não. Các phân tử thuốc hoặc kháng thể có thể dùng trong chẩn đoán, điều trị các bệnh thần kinh có thể bị chặn lại hoặc vận chuyển qua hàng rào máu não nhưng không đủ lượng hoạt động. Các nhà khoa học ở ĐH Moscow đã tìm ra giải pháp cho vấn đề này.

    Họ đã sử dụng công nghệ nano để đưa thuốc đến các vùng đặc biệt trong não bị tổn thương do bệnh thoái hóa thần kinh. Trong các thí nghiệm, họ đã thử nghiệm thuốc hoạt động trong hạch nền. Đây chính là vùng có các neuron vận động, khi bị tổn thương sẽ gây nên các triệu chứng của bệnh Parkinson như run, co cứng, di chuyển chập chạp và bất ổn định tư thế.

    Thuốc chính là các enzyme catalase chống oxy hóa, được đưa đến các tế bào hay mô thần kinh nhờ đại thực bào. Catalase có ưu thế quan trọng trong số các chất oxy hóa khác vì nó là một enzyme  có thể hoạt động chọn lọc, có hiệu quả cao đối với nhiều dạng hoạt động khác nhau của oxy trong vùng viêm, nhờ vậy có thể bảo vệ tế bào khỏi tổn thương bởi các gốc oxy hoạt động (ROS).

    Tổn thương do viêm được hình thành gây nên các bệnh thoái hóa thần kinh, và đại thực bào có khả năng xuyên qua 650km mao mạch của hàng nào máu não để mang các phân tử thích hợp đến với các neuron bị ảnh hưởng do viêm hay khối u.

    Các gốc oxy được sinh ra rất nhiều trong tế bào khi viêm hoặc hình thành khối u, sẽ dẫn dụ tế bào miễn dịch đến. Vì vậy các nhà khoa dọc đã chọn cách chất đầy các chất chống oxy hóa lên đại thực bào và để chúng tự bị dẫn đến tế bào đích, đem các phân tử cần thiết đến tiêu diệt tế bào viêm.

    Nhóm nghiên cứu của nhà sinh hóa học Elena Batrakova đã thử nghiệm thành công phương pháp điều trị này trên mô hình động vật. Hiện nay họ đang chuẩn bị thử nghiệm lâm sàng trên các tình nguyện viên.

    Nguyễn Thuỳ Linh
    Theo Russian Radio

  • Phát hiện mới về các phân tử kích hoạt cảm giác ngứa

    Trong một thời gian dài, cảm giác ngứa được xem là một dạng giảm nhẹ, biểu hiện thấp của cảm giác đau. Tuy nhiên hai loại cảm giác này lại tạo ra hai phản xạ hoàn toàn khác nhau. “Đau” sẽ tạo ra phản xạ “rút lui” trong khi đó “ngứa” sẽ tạo phản xạ “gãi”. Nghiên cứu gần đây trên mô hình chuột đã cho thấy cảm giác ngứa được dẫn truyền bởi một hệ thống dây thần kinh chuyên biệt liên kết với các tế bào ngoại biên, dẫn truyền xung thần kinh đến não.

    Nhà thần kinh học Mark Hoon và Santosh Mishra của National Institute of Dental và Craniofacial Research ở Bethsda, Maryland, đã nghiên cứu về một phân tử liên quan đến việc tạo ra cảm giác ngứa. Nghiên cứu được thực hiện bằng cách kiểm tra, sàng lọc các gen biểu hiện trong các tế bào thần kinh cảm giác được kích ứng bởi nóng, đau, chạm và ngứa. Các nhà khoa học đã tìm ra được một loại protein cụ thể chỉ biểu hiện trong một nhóm các tế bào neuron. Protien này được gọi là natriuretic polypeptide b (Nppb). Những con chuột bị đột biến thiếu Nppb không đáp ứng với các chất gây ngứa nhưng đáp ứng bình thường với các kích thích nóng và đau. Các nhà khoa học cũng quan sát thấy các con chuột sau khi tiêm Nppb vào vùng cổ sẽ bắt đầu phản ứng gãi một cách mãnh liệt. Kết quả này được quan sát trên cả chuột đột biến và chuột đối chứng.

    Tác giả công trình Hoon nói “Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra chất dẫn truyền chính được sử dụng trong cảm giác ngứa, đồng thời xác minh cảm giác ngứa được tạo ra bởi các tế bào thần kinh cảm giác chuyên biệt”. Hoon và Mishra tiếp tục nghiên cứu tìm kiếm các tế bào neuron mang thụ thể của Nppb trong tủy sống. Khi tiêm một loại chất độc được làm từ hạt của cỏ xà phòng (soapwort) vào các tế bào neuron này trong tủy sống, các nhà nghiên cứu quan sát thấy chỉ có các đáp ứng với cảm giác ngứa bị chặn trong khi các đáp ứng với các loại cảm giác khác vẫn hoạt động. Kết quả đó đã cung cấp bằng chứng cho thấy cảm giác ngứa được dẫn truyền trong những con đường riêng biệt. Những nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí Science ngày 23 tháng 5, 2013.

    20-9_a

    Mục tiêu điều trị

    Glenn Giesler, một nhà thần kinh học tại Đại học Minnessota ở Minneapolis nhận xét nghiên cứu trên đã giải thích một số vấn đề trong các tài liệu trước đây đồng thời cung cấp một giả thuyết có thể kiểm chứng về cách hoạt động của việc tạo cảm giác ngứa.

    Các nghiên cứu trước đây đã đưa gợi ý rằng gastrin-releasing peptide, GRP, là chất dẫn truyền thần kinh được tạo ra bởi các tế bào thần kinh cảm giác để bắt đầu con đường tín hiệu liên quan đến ngứa. Nhưng Hoon và Mishra, cũng như một nhóm nghiên cứu khác đã không tìm thấy GRP bên ngoài tủy sống, từ đó chỉ ra rằng GRP không phải là chất đóng vai trò kích hoạt đầu tiên trong chuỗi truyền tín hiệu ngứa.

    Tuy nhiên, Hoon và Mishra nhận thấy rằng GRP vẫn tham gia và đóng vai trò trong các phản ứng ngứa. Khi được tiêm GRP, những con chuột đột biến thiếu Nppb hoặc thụ thể của Nppb vẫn tạo ra phản xạ gãi mạnh. Ngoài ra, trong một thí nghiệm khác, những con chuột trong đó receptor GRP bị ức chế không thực hiện các hành vi gãi, thậm chí khi tiêm Nppb vào tủy sống. Những kết quả trên chỉ ra rằng GRP được giải phóng ở các tế bào thần kinh ở phần sau con đường truyền tín hiệu ngứa của Nppb.

    “Mô hình này phù hợp với các quan sát của các nhóm nghiên cứu khác”, Sarah Ross, nhà thần kinh học tại Đại học Pittsburgh ở Pennsylvania nhận định. Các con đường thần kinh cảm giác ngứa ở người cũng tương tự, mặc dù không hoàn toàn giống như ở mô hình chuột. Vẫn chưa biết được mối liên hệ giữa Nppb ở chuột và một chất nào tương tự ở người. Hoon và cộng sự có kế hoạch tiếp tục tiến hành các nghiên cứu tương tự trên người nhằm tìm ra mối liên hệ với kết quả ở trên.

    Giesler nói ngứa là một vấn đề phổ biến, có liên quan đến hơn 20 điều kiện khác nhau, bao gồm eczema và bệnh vẩy nến. “Thuốc kháng histamine có tác dụng trong một số dạng ngứa, nhưng đối với đại đa số dạng còn lại thuốc không có hiệu quả”, ông nói. “Nghiên cứu này giới thiệu một hướng nghiên cứu mới, một mục tiêu mới cho việc điều trị lâm sàng các bệnh liên quan đến ngứa.”

    Lâm Thái Thành
    Theo Nature

  • Các cơ sở khoa học của Tế bào tua trong điều trị tiểu đường loại 1

    Clare-Salzler và cộng sự, cách đây 20 năm, lần đầu tiên đã chứng minh những tế bào Tua có nguồn gốc từ hạch bạch huyết tuyến tụy của chuột tiểu đường (NOD) có khả năng ngăn chặn bệnh tiểu đường loại 1 khi tiêm vào những con chuột đồng gen. Đột phá này đã bắt đầu kỉ nguyên của tế bào tua, ở một khía cạnh trước đó chưa ai đánh giá: tiềm năng ức chế miễn dịch. Kể từ đó, liệu pháp miễn dịch tế bào tua nhắm đến khối u ác tính, những thử nghiệm liệu pháp tế bào tua trên bệnh nhân được bảo hiểm y tế, những điều này mở đường cho các thử nghiệm đầu tiên của tế bào tua trên con người.

    18-9

    (A) Hướng tiếp cận chung cho liệu pháp trị ung thư bằng liệu pháp tế bào tua.
    Hầu hết tế bào tua được tạo ra từ bạch cầu đơn nhân dưới sự hiện hiện của GM-CSF/IL4. Sau đó tế bào tua được tiếp xúc với kháng nguyên ly giải từ khối u rồi được tiêm vào bệnh nhân. Tùy thuộc vào khối u mà tế bào tua có thể được tiêm trực tiếp vào vị trí u hoặc được tiêm vào máu ngoại vi. Các tế bào tua được tạo ra bằng sự thúc đẩy trưởng thành về mặt kiểu hình, đặc trưng bởi các protein bề mặt đồng kích thích, biểu hiện cao HLA và tiết ra các cytokine tiền viêm.

    (B) Ngược lại, liệu pháp tế bào tua chữa tự miễn bằng cách cung cấp một môi trường điều hòa.
    Mục tiêu là ngăn chặn tế trực tiếp hoặc gián tiếp các tế bào T tự phản ứng hoặc ngăn chặn các tế bào T/B trinh nguyên trở thành tế bào tự phản ứng. Tế bào tua chưa trưởng thành ngăn chặn các tế bào T tự phản ứng trực tiếp và gián tiếp bằng cách kích thích sự tăng sinh và biệt hóa các tế bào T và B điều hòa. Như vậy sử dụng tế bào tua chưa trưởng thành có thể ngăn chặn sự hình thành tế bào T tự phản ứng, điều này rất có ý nghĩa trong điều trị tiểu đường loại 1.

    Tài liệu tham khảo:
    Dendritic Cell Therapy for Type 1 Diabetes Suppression. Nick Giannoukakis, Massimo Trucco;  Immunotherapy. 2012;4:1063-1074.

    Phan Lữ Chính Nhân

  • Những chú rùa chưa nở chống lại nhiệt độ bằng cách dịch chuyển

    Phôi dịch chuyển trong trứng để điều chỉnh nhiệt độ – yếu tố quyết định giới tính ở rùa.

    16-9
    Rùa ao Trung Quốc loại nhỏ (Chinemys reevesii) có thể điều hòa nhiệt độ cơ thể trước khi nở.

    Chinemys reevesii bắt đầu tự chủ từ rất sớm. Một nghiên cứu đăng trên Biology Letters cho thấy phôi của loài bò sát này có thể di chuyển xung quanh trong trứng để điều hòa nhiệt độ cơ thể và tiếp theo là giới tính của mình. Wei-Guo Du, nhà sinh thái học ở Học viện Khoa học Trung Quốc – Bắc Kinh và là trưởng nhóm thực hiện nghiên cứu cho biết: “Kết quả của chúng tôi cho thấy nhiều động vật có thể chủ động chọn lựa vận mệnh cho mình ngay cả ở giai đoạn rất sớm của phôi”.

    Phát hiện này chống lại giả định từ lâu cho rằng nhiệt độ phôi của bò sát được xác định chỉ bởi môi trường nơi mà rùa mẹ đẻ trứng. Đối với C. reevesii, phôi phát triển trong điều kiện mát chủ yếu mang giới tính đực, trong khi những phôi phát triển trong điều kiện ấm hơn mang giới tính cái.

    Vị trí

    Du và cộng sự cho thấy phôi C. reevesii đã điều chỉnh nhiệt độ của chúng bằng cách di chuyển đến những điểm nóng hay lạnh bên trong trứng giống như những chú rùa di chuyển đến hay đi khỏi ánh sáng mặt trời để điều chỉnh nhiệt độ cơ thể một khi chúng nở.

    Nghiên cứu trước đó kiểm tra một giống rùa khác cũng đã cho thấy phôi có thể di chuyển từ khu vực lạnh hơn đến khu vực ấm hơn trong trứng. Nhưng nhóm của Du đã đi một bước xa hơn, kiểm tra xem phôi có thể di chuyển ra khỏi khu vực nóng nguy hiểm giống như những con rùa trưởng thành không. Các nhà nghiên cứu đã đặt 125 trứng trong lồng ấp 260C và chia ngẫu nhiên các trứng vào 5 nhóm. Các trứng bị làm nóng đến 290C ở một bên dọc theo chiều dài, đặt gần trung điểm của trứng. Phôi trong trứng bị đốt nóng đến 290C hay 300C ở hai đầu trứng sẽ di chuyển đến những vùng ấm áp hơn. Nhưng trứng bị đốt nóng đến 330C ở hai đầu trứng – nhiệt độ quá nóng cho sự phát triển của rùa – phôi sẽ di chuyển ra khỏi các điểm nóng.

    Để xác định những con rùa nhỏ đang kiểm soát chuyển động của chúng bên trong trứng, nhóm đã ấp đến 410C. Nhiệt độ bề mặt tại một đầu của C. reevesii được giữ ở 280C, nhiệt độ tối ưu cho phôi phát triển. Sau 10 ngày, các nhà khoa học giết ngẫu nhiên một nửa số phôi đang phát triển, một tuần sau đó, họ đánh giá những thay đổi nếu có trong các vị trí ở tất cả phôi còn sống hay chết. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những phôi còn sống sẽ di chuyển đến đầu ấm của quả trứng, trái ngược với khá nhiều phôi chết – do đó điều này ngụ ý rằng một ít rùa thực sự chuyển mình bên trong trứng. Điều này gọi là hành vi điều nhiệt bên trong trứng, phổ biến trong các loài bò sát và cũng có lẽ ở loài chim. Điều này có thể có ích cho những loài đó khi khí hậu ấm lên bởi vì nó có thể giúp phôi tránh được nhiệt độ nóng nguy hiểm.

    George Parsons, Giám đốc cấp cao của Ban Ngư học tại Bể cá John G. Shedd ở Chicago cũng hi vọng rằng kết quả của nghiên cứu sẽ giúp giữ lại nhiều loài bò sát, mặc dù ông không lạc quan mấy về việc phôi có thể tự cứu mình khỏi sự nóng lên toàn cầu. Ông nói: “Hành vi có thể đệm cho những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhưng chỉ ở một mức độ nhất định”. Và Parsons muốn thấy nhiều kết quả nghiên cứu hơn về những phát hiện mới liên quan đến xác định giới tính: “Các phôi sẽ có khuynh hướng tiến lại gần hay ra xa sức nóng?”.

    Trong khi nghiên cứu được ca ngợi, Fredric Janzen, một nhà sinh thái học tại Đại học bang Iowa ở Ames đã đặt ra câu hỏi liệu các phát hiện này có tác động lên tỉ lệ giới tính rùa trong tự nhiên. Ông đã ghi nhận trên nhiều rùa tồn tại sự xác định giới tính phụ thuộc nhiệt độ, tỉ lệ giới tính của con non được xác định bởi nhiều nhân tố khác nhau như thực vật phủ trên tổ, nhiệt độ thời tiết nói chung và mức độ hormone steroid trong lòng đỏ trứng. Ông đã nói: “ Nếu đây là điểm chung giữa các loài rùa, điều đó có vẻ không để lại nhiều chỗ cho cơ chế điều hòa nhiệt độ của phôi để có tác động đáng kể lên việc xác định giới tính của con non”.

    Nguyễn Thị Mỹ Phước
    Theo Nature

  • Giả thuyết mới về nguyên nhân của Alzheimer: Sự tương tác của các protein trong não

    Nghiên cứu cho thấy sự tương tác của tau và amyloid beta trong não có thể gây suy giảm nhận thức.

    Alzheimer là bệnh thoái hóa thần kinh phổ biến nhất. Bệnh Alzheimer được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1906 do bác sĩ tâm thần và thần kinh học người Đức Alois Alzheimer. Bệnh diễn tiến chậm và có thể gây tử vong. Trong nhiều năm, các nhà khoa học nghiên cứu về bệnh Alzheimer tập trung tìm hiểu hai protein tích lũy trong não của những người bị bệnh Alzheimer có thể góp phần gây ra bệnh. Các protein đó gồm amyloid beta tạo ra các mảng bám và protein tau tạo ra các đám rối thần kinh.

    Bệnh Alzheimer đã được xác định là một bệnh liên quan đến sự gấp cuộn protein, do sự tích tụ các protein amyloid beta và protein tau gấp cuộn sai trong não. Ở bệnh Alzheimer, protein APP bị phân cắt thành các sợi amyloid beta, và các sợi này tạo nên các cụm tích tụ bên ngoài tế bào thần kinh dưới dạng mảng dày đặc gọi là mảng lão hóa. Bên cạnh đó protein tau bị thay đổi về mặt hóa học, trở nên phosphoryl hóa quá mức, nó bắt cặp với các sợi khác, tạo thành các đám rối sợi thần kinh và làm tan rã hệ thống vận chuyển của tế bào thần kinh.

    13-9

    Nhưng lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu bệnh Alzheimer đã tiến hành quan sát hai loại protein không phải một cách độc lập mà là sự tương tác của hai loại protein với nhau. Nghiên cứu được thực hiện trên mô não sau khi khám nghiệm tử thi bệnh nhân Alzheimer và trong não chuột mắc bệnh Alzheimer. Nghiên cứu phát hiện ra rằng sự tương tác giữa hai protein này có thể là chìa khóa cho căn bệnh Alzheimer. Khi những tương tác tăng lên, sự tiến triển của bệnh Alzheimer trở nên trầm trọng hơn.

    Nghiên cứu được thực hiện bởi Hemachandra Reddy, tiến sĩ, nhà nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu linh trưởng quốc gia Oregon tại Đại học Khoa học và Sức khoẻ Oregon, công trình được công bố trong tháng 6 năm 2013 trên Tạp chí Bệnh Alzheimer (Journal of Alzheimer’s Disease).

    13-9_2

    Nghiên cứu cho thấy khi có sự tương tác giữa protein tau phosphoryl hóa và amyloid-beta, đặc biệt là ở dạng độc của nó, xảy ra tại các synap thần kinh, các synap thần kinh này sẽ bị tổn thương. Chính sự tổn thương đó có thể dẫn đến sự suy giảm nhận thức ở các bệnh nhân Alzheimer. Reddy, tác giả nghiên cứu, cho rằng phức hợp được hình thành giữa amyloid-beta và tau có thể ngăn chặn các giao tiếp thần kinh. Reddy cũng hướng đến việc tìm kiếm một phân tử có thể ức chế sự gắn kết của hai protein này ở các synap thần kinh, từ đó đưa ra hướng chữa trị cho bệnh Alzheimer.

    Để tiến hành nghiên cứu, Reddy và nhóm của ông đã sử dụng ba loại chuột khác nhau, những con chuột này đều có những đặc điểm của bệnh Alzheimer, bao gồm việc có amyloid-beta và tau phosphoryl hóa trong não bộ. Reddy cũng phân tích mô não từ những người bị mắc bệnh Alzheimer sau khi chết. Reddy và Maria Manczak, tiến sĩ, một nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của Reddy, đã sử dụng các kháng thể nhận biết và bắt cặp đặc hiệu với amyloid-beta và tau phosphoryl hóa nhằm tìm kiếm các bằng chứng cho thấy sự tương tác của amyloid-beta và tau phosphoryl hóa. Họ đã tìm thấy phức hợp amyloid-beta/tau trong mô não bệnh Alzheimer của người cũng như trong não chuột mắc Alzheimer. Nhóm Reddy đồng thời nhận thấy rằng những vùng có nhiều phức hợp amyloid-beta/tau cũng chính là những vùng Alzheimer tiến triển mạnh nhất.

    Reddy tìm thấy rất ít hoặc không có bằng chứng của sự tương tác tương tự trong các đối tượng đối chứng- những con chuột không có những đặc điểm của bệnh Alzheimer và mô não của những người không có bệnh Alzheimer. “Nhiều nghiên cứu bệnh Alzheimer đã được thực hiện để xem xét sự tương tác giữa amyloid-beta và tau,” Reddy nói. “Nhưng bài báo này là bài báo đầu tiên đưa ra những chứng cứ mạnh mẽ để chứng minh rằng có một sự tương tác giữa amyloid-beta và tau, và tương tác này có thể gây ra những tổn thương tại các synap thần kinh và gây suy giảm nhận thức ở những người bị bệnh Alzheimer. “

    Reddy và công sự tiếp tục thực hiện những nghiên cứu để xác định các vấn đề quan trọng tiếp theo. Một là xác định vị trí gắn hoặc tương tác giữa amyloid-beta và tau, tìm hiểu nơi đầu tiên trong tế bào thần kinh tương tác của amyloid-beta và tau xảy ra. Hai là tìm ra một phương pháp để hạn chế tương tác đó và từ đó có thể ngăn chặn hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer.

    Lâm Thái Thành
    Theo Neuroscience News

  • Các chất từ cây thuốc châu Phi có thể giúp ngăn ngừa sự tiến triển của ung thư

    Nhiều cây thuốc châu Phi chứa các chất hóa học có thể ngăn ngừa sự di căn các tế bào ung thư. Đây là kết luận của các nhà nghiên cứu sau khi thực hiện tại phòng thí nghiệm Đại học Johannes Gutenberg University, Mainz (JGU). Các hợp chất từ cây sẽ được tiếp tục phân tích để đánh giá tiềm năng điều trị bệnh của chúng.

    GS. Thomas Efferth của Viện Dược học và Sinh hóa – Khoa học liệu pháp sự sống tại đại học Mainz giải thích: “Các hoạt chất hiện diện trong các cây thuốc châu Phi có thể giết các tế bào ung thư đã kháng nhiều hơn một loại thuốc. Vì vậy, chúng là một điểm khởi đầu hoàn hảo trong việc phát triển những chiến lược điều trị ung thư mới khi tế bào ung thư không bị tác động bởi các tác nhân liệu pháp thường quy”. Trong 4 năm qua, GS. Efferth và TS. Sinh hóa Victor Keute của Đại học Dschang ở Cameroon đã nghiên cứu các hoạt chất trong các cây cỏ châu Phi như cây cúc gai (giant globe thistle), tiêu dại (wild pepper), cỏ mác (speargrass) và ớt Ethiopia (Ethiopian pepper).

    Sự kháng đa thuốc là một trong những vấn đề gây lo ngại nhất trong liệu pháp điều trị ung thư vì trong những trường hợp như vậy hầu hết các thuốc trị ung thư chuẩn được sử dụng trong liệu pháp bị thất bại và cơ hội sống sót của bệnh nhân vì thế bị giảm đáng kể. Vấn đề không thể chỉ đơn giản được giải quyết bằng cách tăng liều điều trị vì nó cũng gây ra những tác dụng phụ nguy hiểm không mong muốn. GS Efferth nói thêm: “Chúng tôi đang tìm kiếm các chất có thể phá vỡ tính kháng thuốc của ung thư và không gây tác dụng phụ”, ông cũng làm việc với các cây thuốc được sử dụng trong đông y Trung Hoa.

    11-9

    Các đoạn rễ của cây cúc gai

    Nhiều loại cây chứa các độc tố có tác dụng tự bảo vệ chống lại động vật ăn chúng và các bệnh do vi sinh vật. Trải qua hàng triệu năm tiến hóa trên mặt đất, các thực vật đã kiểm soát các phân tử xác định để giúp chúng bù đắp bất lợi chính của chúng khi đối mặt với kẻ thù, tức là tính bất động và thiếu một hệ thống miễn dịch. Thách thức cho các nhà dược học bây giờ là xác định chất từ thực vật nào là thuốc và chất nào là độc và nguy hiểm.

    Trong dự án liên kết với Mainz, nhà khoa học người Cameroon Victor Kuete đã kiểm tra hơn 100 loại thực vật ở đất nước của ông và tác động gây độc của chúng lên tế bào ung thư. Được trao giải Humboldt Research Fellowship, bây giờ ông có thể tiếp tục và mở rộng nghiên cứu của mình như là một thành viên của nhóm nghiên cứu của Thomas Efferth tại Mainz. Efferth nói: “Chúng tôi đã tìm thấy các chất benzophenone và các chất hóa học thực vật khác có thể vượt qua các cơ chế kháng thuốc của ung thư và vì thế mở ra nhiều cơ hội mới cho nghiên cứu kế tiếp”.

    Các nhà nghiên cứu đang tập trung vào 3 cơ chế kháng thuốc khác nhau. Sự kháng thuốc qua trung gian kênh vận chuyển, chúng ngăn chặn thuốc gây ra tác động do một cơ chất gọi là P-glycoprotein thúc đẩy sự bơm thuốc ra khỏi tế bào ung thư. Trong trường hợp sự kháng thuốc thông qua gen ức chế khối u, một đột biến trong protein p53 nghĩa là các tế bào ung thư không những không bị tiêu diệt mà còn trở nên kháng thuốc và tăng tính ác tính. Cuối cùng, sự kháng thuốc thông qua gen gây ung thư (oncogene), thụ thể nhân tố tăng trưởng biểu bì (epidermal growth factor receptor – EGFR) gửi tín hiệu vào trong tế bào làm cho khối u tăng trưởng nhanh hơn. Các nhà nghiên cứu tại Mainz có các mô hình tế bào của cả 3 cơ chế kháng thuốc, giúp họ có thể thử nghiệm tính hiệu quả của các chất thu từ thực vật.

    Trong tổng số 8 công bố gần đây nhất của họ, nhóm nghiên cứu báo cáo rằng 4 hoạt chất benzophenone tự nhiên có thể ngăn chặn sự tăng sinh của các dòng tế bào ung thư được nghiên cứu, bao gồm cả các dòng kháng đa thuốc. “Benzophenone được tìm thấy là những chất có tiềm năng gây độc cần được nghiên cứu mở rộng với mục đích phát triển các loại thuốc tiêu diệt ung thư mới có hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư kháng thuốc” là lời khẳng định trên bài báo được công bố gần đây trong tạp chí khoa học Phytomedicine.

    Vũ Thanh Bình
    Theo ScienceDaily
  • Kỹ thuật chụp hình não giúp chẩn đoán các bệnh rối loạn vận động.

    Một nghiên cứu được công bố vào tháng 6 của Đại học California mở ra phương pháp chẩn đoán cho các bệnh về rối loạn vận động thông qua hình ảnh chụp não bệnh nhân. Với các kết quả từ kĩ thuật chụp ảnh tán xạ và phép chiếu, các bác sĩ có thể chẩn đoán sớm các loại bệnh rối loạn và đưa ra liệu trình chữa trị và can thiệp thích hợp.

    Nghiên cứu trong vòng 3 năm được tiến hành trên 72 bệnh nhân với các dấu hiệu rối loạn vận động lâm sàng nhất định. Sử dụng kỹ thuật ghi hình tán xạ tensor, những nhà nghiên cứu thành công trong phân loại bệnh nhân ra các nhóm bệnh với độ chính xác cao. Kết quả được công bố trên tạp chí Rối loạn Vận động (Journal Movement Disorders). Ông David Vaillancourt, phó giáo sư Khoa Ứng dụng Sinh lý học và Vận động học, cố vấn khoa học của đề tài cho biết “Mục đích nghiên cứu của đề tài là xác định các dấu hiệu riêng biệt ở não của từng loại bệnh, từ đó phân loại được chúng, điều mà trước đây không thực hiện được do sự trùng lắp các dấu hiệu lâm sàng giữa các bệnh”. “Không chỉ ở kỹ thuật hình ảnh, kết quả chẩn đoán từ dịch não tủy và máu cũng đem lại kết quả thành công tương tự”, ông cho biết thêm.

    9-9

    Hình ảnh chụp bằng phương pháp DTI thể hiện các vùng quan tâm khu vực Basal Ganglia.

    Các loại bệnh rối loạn vận động như Parkinson, bệnh run, bệnh đa xơ cứng, chứng liệt trên nhân gia tăng (Progressive supranuclear palsy –PSP) cùng có các triệu chứng ban đầu giống nhau, điều này gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị, có thể ảnh hưởng đến diễn tiến bệnh sau này.

    Kỹ thuật Diffusion tensor imaging – DTI là một kỹ thuật chẩn đoán không xâm lấn dựa trên nghiên cứu các phân tử nước trong não và xác định vùng quan trọng gây tổn thương đến vùng chất trắng hoặc chất xám của não. Vaillancourt và các cộng sự khảo sát vùng hạch đáy và tiểu não ở từng bệnh nhân và sử dụng thống kê để thực hiện phân loại. Thực hiện nhiều phương pháp thống kê và so sánh giữa các nhóm, nhóm nghiên cứu đã đưa ra được các điểm khác biệt giữa các loại bệnh rối loạn này.

    Vaillancourt so sánh kết quả chẩn đoán thu được từ nhóm sẽ giúp việc chẩn đoán và phân loại bệnh nhân hiệu quả hơn và chính xác hơn như một bài kiểm tra lượng cholesterol thông thường. “Một bệnh nhân đến với chúng tôi với các dấu hiệu lâm sàng ban đầu phù hợp với nhóm bệnh về vận động, với các thông tin thu thập được sau đó, chúng tôi có thể phân loại được bệnh nhân với dấu hiệu run đặc biệt và bệnh Parkinson”.

    Vaillancourt và nhóm nghiên cứu của ông đã thực hiện được rất nhiều nghiên cứu trong chương trình của Viện Quốc gia về các Rối loạn Thần kinh và Dấu hiệu sinh học của bệnh Parkinson. Nhóm tiếp tục thực hiện các nghiên cứu dài hạn về dấu hiệu sinh học của bệnh Parkinson trên 150-180 người bệnh trong vài năm tới. Nhóm hướng đến sử sụng DTI và các kỹ thuật MRI khác để phân loại và theo dõi tiến trình của bệnh Parkinson.

    Lê Minh Dũng
    Theo ScienceDaily

  • Cách tế bào miễn dịch phát hiện tác nhân xâm nhiễm

    Làm thế nào các tế bào miễn dịch kiểm soát lựa chọn trong một số lượng rất lớn protein tương tự nhau trong cơ thể để phát hiện tác nhân xâm lấn ngoại lai và chiến đấu với tác nhân xâm nhiễm?

    GS vật lý Paul Francois tại đại học McGill cho biết: “Đối với các tế bào miễn dịch, việc lựa chọn các protein ngoại lai giống như việc mò công đáy bể.” Việc hiểu làm thế nào các tế bào miễn dịch giải quyết thử thách kinh khủng này rất quan trọng, vì nó cung cấp sự hiểu biết cốt yếu trong việc tìm hiểu các bệnh thuộc hệ thống miễn dịch, từ bệnh AIDS đến bệnh tự miễn.

    Trong một nghiên cứu được công bố ngày 21 tháng 5 trên tạp chí Physical Review Letters, GS Francois và Jean-Benoit Lalanne đã sử dụng công cụ máy tính để kiểm tra loại hệ thống miễn dịch nào được sử dụng để phát hiện nồng độ thấp các kháng nguyên ngoại sinh (đặc điểm của sự xâm nhiễm tiềm tàng) trong một biển kháng nguyên tự thân hiện diện bình thường trên bề mặt tế bào.

    Sự mô phỏng trên máy tính của các nhà nghiên cứu tiết lộ một giải pháp đơn giản đến ngạc nhiên dựa trên hiện tượng đã biết rõ của sự thích nghi sinh hóa – một cơ chế sinh hóa chung cho phép các sinh vật đối phó với nhiều loại điều kiện môi trường. Để tìm giải pháp, máy tính sử dụng một thuật toán dựa trên thuyết tiến hóa của Darwin. Thuật toán này đã được thiết kế trước đây bởi nhóm nghiên cứu của GS Francois, tạo các mô hình toán học ngẫu nhiên của hệ thống sinh hóa. Sau đó nó tính điểm bằng cách so sánh đặc tính của những hệ thống này với các đặc tính được xác định trước của hệ thống miễn dịch. Các hệ thống có số điểm cao nhất được lặp lại trong lần tiếp theo có biến đổi, và quy trình được lặp lại qua nhiều lần liên tục đến khi các hệ thống đạt đến số điểm lý tưởng. Trong trường hợp này, hầu như tất cả các giải pháp rất giống nhau, cho thấy chúng có cùng cấu trúc và motif chủ chốt.

    21-8

    Các tế bào T của hệ thống miễn dịch phân biệt các phối tử ngoại lai (màu đỏ) và tự thân (màu xanh) bằng việc sử dụng một công cụ sinh hóa nội sinh.

    GS Francois nói: “Hướng tiếp cận của chúng tôi cung cấp một khung giả thiết đơn giản hơn trong việc tìm hiểu điều gì đang diễn ra. Mô hình của chúng tôi có nhiều điểm tương đồng với các hệ thống miễn dịch thực” như việc các tế bào miễn dịch kiểm soát lựa chọn trong một số lượng rất lớn protein của cơ thể để phát hiện tác nhân xâm lấn ngoại lai và khởi động đáp ứng miễn dịch.

    Vũ Thanh Bình
    Theo ScienceDaily