Author: tcnhat

  • Điều trị điếc bằng tế bào gốc trên chuột: hy vọng mới

    Các nhà nghiên cứu tại Nhật Bản đã đánh giá những rủi ro và hiệu quả của cấy hai loại tế bào gốc vào ốc tai một con chuột, đã kết luận rằng cả hai loại tế bào gốc iPS này và tế bào gốc phôi (ES) này đều tồn tại và biệt hoá thành các tế bào thần kinh. Tuy nhiên, có một nguy cơ phát triển khối u kết hợp khi cấy ghép các tế bào iPS vào ốc tai chuột.


    Nghiên cứu của họ được công bố trong Tạp chí Cell Transplantation (21:4).


    “Điếc hay giảm thính lực ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới,” Tiến sĩ Takayuki Nakagawa của Khoa Tai Mũi Họng, Graduate School of Medicine, trường Đại học Kyoto, Nhật Bản. “Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra tiềm năng của phương pháp tiếp cận dựa trên tế bào gốc để tái sinh của các tế bào tóc và các tế bào thần kinh thính giác. Chúng là những tế bào liên quan đến chính các cấu trúc rất cần thiết cho việc nghe và khiếm khuyết trong trường hợp mất thính lực và điếc.”

    Các tác giả lưu ý rằng các tế bào gốc phôi thai trước đó đã được xác định là ứng cử viên đầy hứa hẹn cho việc cấy ghép, tuy nhiên chúng có thể bị thải loại bởi miễn dịch và các vấn đề đạo đức. Do đó, nghiên cứu này đã so sánh sự biệt hoá và tồn tại của tế bào gốc phôi và tế bào iPS.

    “Nghiên cứu của chúng tôi kiểm tra bằng cách sử dụng tế bào gốc vạn năng cảm ứng tạo ra từ nguồn bệnh nhân (tế bào iPS) để cung cấp một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn cho các tế bào ES,” Tiến sĩ Nakagawa giải thích. “Ngoài ra, tiềm năng nguy cơ ung thư từ các tế bào iPS cần được làm rõ.”

    Bốn tuần sau khi cấy ghép, các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng phần lớn của ốc tai đã được cấy ghép có xuất hiện các tế bào thần kinh biệt hoá từ iPS hoặc ES. Tuy nhiên, có một sự khác biệt trong số lượng tế bào hình thành tuỳ vào ES hay iPS.

    Họ cũng ghi nhận sự hình thành của một Teratoma (khối u quái) trong một số ốc tai sau khi cấy ghép với một nhóm các tế bào iPS.

    “Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là tài liệu đầu tiên của sự hình thành Teratoma trong ốc tai sau khi cấy ghép tế bào”, tiến sĩ Nakagawa.

    Các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự hình thành Teratoma trong một dòng tế bào iPS chỉ ra sự cần thiết để lựa chọn dòng tế bào iPS thích hợp để tránh khối u. Họ cũng ghi nhận sự cần thiết cho phát triển các phương pháp để loại bỏ các tế bào không biệt hoá sau khi cảm ứng thần kinh để thiết lập điều trị dựa trên iPS an toàn cho tai trong.

    PVP

     


  • Chuyến thăm của bà Nicoletta Dentico

    Ngày 18-7-2012, PTN Nghiên cứu và ứng dụng Tế Bào Gốc đã hân hạnh đón tiếp bà Nicoletta Dentico – Đồng giám đốc của Tổ chức Health Innovation in Practice (HIP) đến thăm và làm việc tại PTN nhân chuyến thăm Việt Nam.

    Nicoletta Dentico

    Bà Nicoletta Dentico trao đổi cùng GS. TS. Trần Linh Thước, TS. Nguyễn Đức Thái và Thầy Phan Kim Ngọc

    Tại phòng thí nghiệm, bà đã có chuyến tham quan khu vực nghiên cứu và có buổi nói chuyện thân mật với các cán bộ nghiên cứu của PTN về những tiến triển mới nhất của chính sách sở hữu trí tuệ và kế hoạch chia sẽ thành quả nghiên cứu trong tiến trình hội nhập nghiên cứu của thế giới. Bà đã bày tỏ sự ngạc nhiên về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ và tiềm lực nghiên cứu mà Việt Nam đang có.

    19

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc giao lưu cùng Bà Nicoletta Dentico

    Bà đã chia sẻ: “Sự tiến bộ của thế giới ngày nay không còn tuỳ thuộc vào thành quả của một số Đại học hoặc Trung nghiên cứu hàng đầu của những nước tân tiến. Các nước đang phát triển hiện có những đóng góp càng ngày càng quan trọng từ việc phát triển nội lực khoa học và kỹ thuật của mỗi quốc gia. Tôi nhận thấy rằng điều này cũng đang diễn ra ở Việt Nam”

    20

    Sinh viên ĐH Khoa học Tự nhiên chụp ảnh lưu niệm cùng các Thầy và Bà Nicoletta Dentico

    Bà đã động viên và khuyến khích các cán bộ nghiên cứu trẻ tạo nên sự đột phá và thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu y sinh để đóng góp cho những thành tựu của thế giới và cải thiện sức khoẻ y tế cộng đồng. ” Thế giới có những bệnh ung thư như ung thư cổ, ung thư tuyến tiền liệt… hiện tại không có thuốc trị, và những căn bệnh hiểm nghèo khác nếu có thể điều trị được thì sẽ rất đắt tiền. Chính các bạn, những nhà nghiên cứu trẻ, thế hệ trẻ đang ngồi đây, sẽ thay đổi điều đó”, bà Nicoletta đã nói.

    Chuyến thăm lần này cũng đưa ra những cơ hội để hợp tác trong tương lai giữa HIP và Việt nam để cùng nhau thúc đẩy việc ứng dụng những thành tựu khoa học trong chăm sóc sức khoẻ ý tế cộng đồng tại Việt Nam.

    Hiện tại bà Nicoletta cũng đang giữ vị trí cố vấn chính sách sức khoẻ cộng đồng và phát triển của tố chức Y Tế Thế Giới (WHO), cố vấn cao cấp về sức khoẻ cộng đồng và sở hữu trí tuệ của tố chức IQsensato, cố vấn chính sách của tổ chức Drug for Neglected Diseases Initiative; giám đốc điều hành của tổ chức Medcins Sans Frontieres.

    Chuyến thăm và làm việc kết thúc tốt đẹp, bà cũng cho biết vô cùng ấn tượng về những thay đổi của Việt Nam so với cách đây 20 năm khi bà đến Việt Nam. “Tôi như đã thấy một Việt Nam khác”, bà nói. Bà cũng rất thích thú về ẩm thực, văn hoá và con người Việt Nam. Bà sẽ còn trở lại để thực hiện và thúc đẩy những chương trình hợp tác đã có được trong chuyến thăm lần này.

    Trường Sinh

  • Thông báo tuyển chọn sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh tham gia học tập và nghiên cứu khoa học tại PTN

     

    ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

    TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC TỰ NHIÊN

    PTN NC & ƯD TẾ BÀO GỐC

    PTN SLH & CNSH ĐỘNG VẬT

    Số: 05/2012

    V/v Tuyển chọn sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh tham gia học tập và nghiên cứu khoa học tại PTN

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

     

     

     

     

     

    Tp. Hồ Chí Minh, ngày 02  tháng 7  năm 2012

     

    THÔNG BÁO

    Để tạo điều kiện cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh tiếp xúc, học tập nâng cao kĩ năng PTN, học tập kĩ năng tổ chức nghiên cứu, thực hiện các đề tài nghiên cứu, Lãnh đạo PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, PTN Sinh lý học và CNSH Động vật, Khoa Sinh học, Trường Đại học KHTN-ĐHQG-HCM tổ chức tuyển chọn sinh viên, học viên cao học và NCS tham gia vào các đề tài, dự án của PTN trong năm học 2012-2013 như sau:

    1.  Đối tượng tuyển chọn

    – Sinh viên, học viên cao học, Nghiên cứu sinh thuộc tất cả các trường đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học trong cả nước và ngoài nước

    2. Điều kiện tuyển chọn

    – Sinh viên/ Học viên/ Nghiên cứu sinh phải có lòng đam mê khoa học thật sự, thích học hỏi, thích tìm tòi nghiên cứu

    –  Sinh viên/Học viên/ Nghiên cứu sinh tham gia tuyển dụng phải nộp Bộ hồ sơ xét tuyển và phỏng vấn trực tiếp với Lãnh đạo PTN

    3. Hồ sơ xét tuyển bao gồm:

    – Đơn xin tham gia học tập và nghiên cứu trong PTN (tự viết), trong đơn xin ghi rõ hướng nghiên cứu muốn tham gia, định hướng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp

    –  Bảng điểm (bảng điểm của chương trình học cao học đối với học viên cao học) (không cần công chứng)

    –  Bảng điểm (bảng điểm của chương trình đại học chính quy đối với sinh viên tính đến HKI năm học 2011-2012) (không cần công chứng)

    –   Ý tưởng nghiên cứu khoa học (trình bày trên giấy A4, tối đa 05 trang, Time New Roman, Cỡ chữ 13, khoảng cách 1,5)

    4. Thời gian xét tuyển

    – Nộp hồ sơ xét tuyển từ ngày 09/07/2012 đến 16h30 ngày 30/07/2012

    – Phỏng vấn trực tiếp: ngày 21/08/2012 (dự kiến)

    – Thông báo kết quả: ngày 29/08/2012 (dự kiến)

    – Tham gia vào phòng thí nghiệm: ngày 05/09/2012 (dự kiến)

    5. Số lượng sinh viên tuyển chọn

    –  Sinh viên: 15

    –  Học viên cao học: 10

    –  Nghiên cứu sinh: 02

    6. Quy trình tuyển chọn

    –  Sơ tuyển: tuyển chọn qua hồ sơ: sau khi nhận hồ sơ Lãnh đạo PTN sẽ chọn những ứng viên đủ điều kiện tuyển chọn

    – Phỏng vấn: chỉ những ứng viên trúng tuyển trong đợt sơ tuyển được mời đến phỏng vấn (mời qua điện thoại)

    – Thông báo trúng tuyển và tham gia vào PTN: ứng viên được thông báo trúng tuyển sau khi phỏng vấn 1-3 ngày bằng điện thoại và tham gia vào PTN sau 3-10 ngày kể từ ngày thông báo trúng tuyển

    7. Các hướng đề tài sẽ triển khai trong năm 2012-2013 của PTN

    – Nghiên cứu điều trị ung thư vú: nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế phân tử tế bào gốc ung thư vú, liệu pháp gen và liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư vú.

    – Nghiên cứu điều trị ung thư gan/xơ gan: nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế kích thích tái tạo gan của tế bào gốc và các thành phần khác.

    – Nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh tiểu đường type 1 và type 2 hướng đến thử nghiệm trên người.

    – Mĩ phẩm: mĩ phẩm chăm sóc da, điều trị sẹo, điều trị nếp nhăn bằng tế bào gốc.

    – Tế bào gốc phôi/ tế bào gốc vạn năng cảm ứng/ tái thiết lập chương trình để tạo tế bào gốc.

    – Hỗ trợ sinh sản: tối ưu quy trình tạo phôi bò in vitro bằng ROSI, ICSI, Piezo ICSI; tách tinh trùng đực/ cái.

    – Nghiên cứu sàng lọc chất kích thích tế bào gốc thần kinh in vivo; ứng dụng trong điều trị bệnh Parkinson.

    – Nghiên cứu điều trị chấn thương cột sống: điều trị bằng liệu pháp tế bào gốc.

    – Nghiên cứu điều trị thiếu máu chi, suy tim bằng ghép tế bào gốc.

    8. Liên hệ

    Mọi thắc mắc xin liên hệ thầy Phan Lữ Chính Nhân

    Email: plcnhan@hcmus.edu.vn ĐTLL: 0912804550

     

     

     

    TM. Lãnh đạo PTN

    Phó trưởng PTN Tế bào gốc

    Trưởng PTN SLH&CNSH Động vật

    Phạm Văn Phúc

     

  • Ứng dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh ly thượng bì bọng nước ở Việt Nam

    Người nước ngoài đến Việt Nam chữa bệnh ly thượng bì bọng nước bằng cấy ghép tế bào gốc

    Theo tin từ bệnh viện Nhi T.W, ngày 08/05/2012 vừa qua, trong khi đang tiến hành ca ghép tế bào gốc điều trị thượng bì bóng nước thứ ba cho một thiếu niên 17 tuổi ở Hải Dương, một gia đình người Brazil đã liên lạc với bệnh viện để đưa con gái 3 tuổi đến Việt Nam cũng để điều trị bệnh này. Như vậy, tính từ cuối tháng 4 đến nay, đã có hai gia đình từ hai quốc gia khác nhau liên lạc với Việt Nam nhằm điều trị bệnh thượng bì bóng nước bằng cấy ghép tế bào gốc. Đây là một thông tin đáng khích lệ cho các nhà nghiên cứu về tế bào gốc của Việt Nam khi bước đầu đạt được những thành tựu trong điều trị tạo được niềm tin và sự quan tâm của quốc tế.

    Ly thượng bì bọng nước là một bệnh di truyền hiếm gặp có căn nguyên do đột biến gen, ảnh hưởng đến gen chỉ huy collagen type 7, vốn có vai trò như chất gắn kết phần nông và phần dưới của da làm da không có chất gắn kết, phần nông của da bị bong trợt, loét khiến bệnh nhân rất đau đớn. Trên thế giới, hiện chỉ có hai đơn vị đã nghiên cứu thành công và áp dụng điều trị bệnh này bằng phương pháp ghép tế bào gốc từ tủy xương: một ở Minessota, Mỹ và hai là Bệnh viện Nhi trung ương Việt Nam.

    benh

    Ảnh: Internet

    Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, giám đốc bệnh viện Nhi T.W cho biết, cuối tháng 4 vừa qua, gia đình ông Gabriel Bontas, người Rumani đã nhiều lần liên lạc với bệnh viện đề nghị thăm khám và điều trị cho con trai 10 tháng tuổi của họ. Tuy nhiên, bệnh nhi này chưa có anh em nên chưa có nguồn tế bào gốc để ghép, bệnh viện khuyên gia đình sinh thêm con để lấy được tế bào gốc cuống rốn hoặc liên hệ với Ngân hàng tế bào gốc cuống rốn châu Âu để tìm mẫu thích hợp.

    Ông Liêm cũng chia sẻ trước đây, bệnh nhân mắc bệnh này gần như là vô vọng, không có biện pháp điều trị hiệu quả và thường chỉ sống được đến 40 tuổi. Bệnh nhân đầu tiên được điều trị bằng cấy ghép tế bào gốc vào tháng 10/2011 hiện đã khỏi hoàn toàn. Bệnh nhi thứ hai đã phẫu thuật được hơn 3 tháng, có tiến triển tốt và đang được theo dõi. Sau thành công của ca cấy ghép thứ ba, sắp tới bệnh viện sẽ tiến hành cấy ghép cho một bệnh nhân ở Gia Lai.

    Hiện bệnh viện đang theo dõi trường hợp của bệnh nhân Brazil này và sẽ chỉ định điều trị. Tất cả trường hợp mắc bệnh có anh em ruột sẽ nhiều cơ may được ghép cao hơn, do khả năng hòa hợp tế bào gốc giữa bệnh nhân với anh em ruột có thể lên đến 100%, còn khả năng hòa hợp với cha mẹ cao nhất chỉ được 50%. Trường hợp chưa có anh em ruột, có thể tìm nguồn tế bào gốc hòa hợp ở Ngân hàng máu cuống rốn lớn.

    Việt Nam chỉ mới bắt đầu nghiên cứu về Tế bào gốc cách đây không lâu nhưng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Chúng ta cùng hi vọng rằng trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ có những bước tiến vượt bậc, không chỉ điều trị bệnh ly thượng bì bọng nước mà còn nhiều bệnh khác nữa.

     

    Phạm Minh Vương

    Nghiên cứu viên PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

    pmvuong@hcmus.edu.vn

  • Suppression of human breast tumors in NOD/SCID mice by CD44 shRNA gene therapy combined…

    Suppression of human breast tumors in NOD/SCID mice by CD44 shRNA gene therapy combined with doxorubicin treatment

    Pham PV, Vu NB, Duong TT, Nguyen TT, Truong NH, Phan NLC, Vuong TG, Pham VQ, Nguyen HM, Nguyen KT, Nguyen NT, Nguyen KG, Khat LT, Le DV, Truong KD, Phan NK

    Published Date May 2012 Volume 2012:5 Pages 77 – 84

    DOI: http://dx.doi.org/10.2147/OTT.S30609

     

    Phuc Van Pham1, Ngoc Bich Vu1, Thuy Thanh Duong1, Tam Thanh Nguyen1, Nhung Hai Truong1, Nhan Lu Chinh Phan1, Tue Gia Vuong1, Viet Quoc Pham1, Hoang Minh Nguyen1, Kha The Nguyen1, Nhung Thi Nguyen1, Khue Gia Nguyen1, Lam Tan Khat1, Dong Van Le2, Kiet Dinh Truong1, Ngoc Kim Phan1

    1Laboratory of Stem Cell Research and Application, University of Science, Vietnam National University, HCM City, 2Military Medical University, Ha Noi, Vietnam

    Background: Breast cancer stem cells with a CD44+CD24 phenotype are the origin of breast tumors. Strong CD44 expression in this population indicates its important role in maintaining the stem cell phenotype. Previous studies show that CD44 down-regulation causes CD44+CD24 breast cancer stem cells to differentiate into non-stem cells that are sensitive to antitumor drugs and lose many characteristics of the original cells. In this study, we determined tumor suppression in non-obese severe combined immunodeficiency mice using CD44 shRNA therapy combined with doxorubicin treatment.
    Methods: Tumor-bearing non-obese severe combined immunodeficiency mice were established by injection of CD44+CD24 cells. To track CD44+CD24 cells, green fluorescence protein was stably transduced using a lentiviral vector prior to injection into mice. The amount of CD44 shRNA lentiviral vector used for transduction was based on CD44 down-regulation by in vitro CD44 shRNA transduction. Mice were treated with direct injection of CD44 shRNA lentiviral vector into tumors followed by doxorubicin administration after 48 hours. The effect was evaluated by changes in the size and weight of tumors compared with that of the control.
    Results: The combination of CD44 down-regulation and doxorubicin strongly suppressed tumor growth with significant differences in tumor sizes and weights compared with that of CD44 down-regulation or doxorubicin treatment alone. In the combination of CD44 down-regulation and doxorubicin group, the tumor weight was significantly decreased by 4.38-fold compared with that of the control group.
    Conclusion: These results support a new strategy for breast cancer treatment by combining gene therapy with chemotherapy.

    Keywords: breast cancer, breast cancer stem cells, CD44, doxorubicin, gene therapy

    dove

    pubmed

  • South Korea steps up stem-cell work

    Các nhà “Stemcellogist” hay nói cách khác là các nghiên cứu viên trên lĩnh vực tế bào gốc ở Hàn Quốc đang hiện nhận được sự đầu tư mạnh mẽ của chính phủ Hàn Quốc. Cụ thể, ngân sách đầu tư cho nghiên cứu tế bào gốc tại Hàn Quốc đã gia tăng lên 100 tỉ won trong năm 2012, nhiều hơn gấp 4 lần khi so sánh với năm 2011. Mặc dù được đầu tư mạnh mẽ, nhưng theo Dong Wook Han, giáo sư tại trường ĐH Konkuk ở Seoul, Hàn Quốc cần có những tham khảo các đạo luật chặt chẽ về nghiên cứu tế bào gốc ở các quốc gia khác trên thế giới để kiểm tra chặt chẽ hiệu quả và tính ứng dụng của tế bào gốc.

    Ảnh: Nature

    Ảnh: Nature

    Tham khảo tại link: http://www.nature.com/news/south-korea-steps-up-stem-cell-work-1.10565

    Nguyễn Gia Khuê

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

    ngkhue@hcmus.edu.vn

  • China’s stem-cell rules go unheeded

    Tên tiêu đề được lấy theo một bài nhận định của tác giả David Cyranoski – một phóng viên của tạp chí Nature. Bài nhận định cho rằng các đạo luật về việc thắt chặt ứng dụng lâm sàng của liệu pháp tế bào gốc đang ngày càng nới lỏng tại Trung Quốc.


    Tham khảo tại link: http://www.nature.com/news/china-s-stem-cell-rules-go-unheeded-1.10410

    Nguyễn Gia Khuê

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

    ngkhue@hcmus.edu.vn

  • Vaccine hy vọng cho ung thư vú

    Vaccine hy vọng cho ung thư vú

    Các nhà khoa học đã phát triển một loại vaccine chống ung thư làm giảm hơn 80% kích
    thước khối u ung thư vú khi được kiểm tra trên chuột trong phòng thí nghiệm.

    Vaccine này hoạt động bằng cách kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể để nhận
    biết một loại phân tử đường đơn lộ ra bên ngoài bề mặt của các tế bào ung thư. Sau đó,
    hệ thống miễn dịch sẽ tấn công khối u, để lại những khối mô khỏe mạnh không bị tổn
    thương.

    Hơn nữa, những xét nghiệm trên động vật sẽ cần thiết trước khi vaccine có thể được thử
    nghiệm trên người. Nghiên cứu tại Đại học Georgia, được công bố trên Kỷ yếu của Viện
    Hàn lâm Khoa học Quốc Gia.

    Nguyễn Thị Kiều Oanh

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

    (gaumeoadi@gmail.com)

  • Cấy ghép tế bào gốc phục hồi chức năng trên chuột

    Cấy ghép tế bào gốc phục hồi chức năng trên chuột

    THỨ 5, Ngày 10 tháng 11 năm 2011(HealthyDay News)- Một nghiên cứu
    mới của các nhà nghiên cứu Nhật Bản đưa rah y vọng rằng một ngày nào đó những người bị suy
    tuyến yên có thể được cấy ghép mô được tạo ra từ tế bào gốc giúp khôi phục chức năng bình thường
    của tuyến.

    Tuyến yên có kích thước nhỏ chỉ bằng hạt đậu, nằm ở đáy não. Nó kiểm soát việc sản xuất và chức
    năng của nhiều loại hormone, bao gồm cả hormone tang trưởng, khả năng sinh sản, căng thẳng và
    quy đinh về nhiệt độ…Nếu thiếu tuyến yên cơ thể sẽ không tồn tại.

    Trong nghiên cứu mới được công bố trực tuyến ngày 9 tháng 11 vừa qua trên tạp chí Nature, các
    nhà khoa học từ Trung tâm Sinh học phát triển RIKEN, Kobe, Nhật Bản đã nuôi cấy tế bào gốc phôi
    từ chuột sau đó biệt hóa thành các loại khác nhau của tế bào gốc nội tiết trong phòng thí nghiệm.
    Tiếp theo, họ cấy ghép một số mô tế bào sản xuất hormone (thường lấy từ tuyến yên ở động vật khỏe
    mạnh) Vào chuột đã bị cắt bỏ tuyến yên và có thể khôi phục lại sự tiết hormone trên chuột.

    Tiến sĩ Yoshiki Sasai, trưởng nhóm nghieen cứu tổ chức và thần kinh tại RIKEN và là tác giả bài báo
    cho biết: “Chúng tôi đã thành công trong việc biệt hóa tế bào gốc phoo thành các tế bào tiết hormone
    trưởng thành, đặc biệt hiệu quả nhất là các tế bào tiết hormone adrenocorticotropin (ACTH).Vì vậy,
    chúng tôi đã thử nghiệm chức năng của chúng bằng cách cấy ghép các tế bào này vào những con
    chuột đã cắt bỏ tuyến yên.Việc cấy ghép không chỉ khôi phục sự tiết hormone mà còn cải thiện được
    hoạt động và sự sống của những con chuột này. Chúng có thể sống sót qua 8 tuần, trong khi những
    con chuột bị cắt bỏ tuyến yên mà không cấy ghép thì không kéo dài được sự sống qua 8 tuần.”

    “Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy ứng dụng thực tế trong việc nuôi cấy tế bào gốc tuyến yên tiến
    tới cấy ghép điều trị trên người. Đó là nghiên cứu tiên phong và mang tính bước ngoặc,” bác sĩ phẫu
    thuật, tiến sĩ Edward Vates, nhà giải phẫu thần kinh đồng giám đốc của các chương trình thần kinh
    nội tiết tại trường Đại học Trung tâm Y khoa Rochester, New York.

    “Đây là một chủ đề rất được quan tâm, rất nhiều các nhà khoa học đang cố gắng để làm điều này.Họ
    đã thực hiện một bước nhảy vọt trong việc nghiên cứu về tuyến yên,” Melmend, một nhà nghiên cứu

    nội tiết lâu năm. Ông cũng đồng ý rằng nghiên cứu mở ra triển vọng cho các bệnh nhân tuyến yên.

    “ Điều này là rất quan trọng trên lâm sang, nhưng cũng phải mất vài năm nghiên cứu ứng dụng sang
    người. Nếu nó được ứng dụng thành công , nó có thể là một bước đột phá tuyệt vời, đặc biệt là cho
    trẻ em bị rối loạn chức năng tuyến yên di truyền. Người lớn bị suy tuyến yên do chấn thươngđầu,
    khối u và bị bức xạ phần đầu, cổ cũng có thể được giúp đỡ,”Melned cho biết.

    Sasai cho biết các nhà nghiên cứu lên kế hoạch áp dụng những phát hiện mới này với tế bào gốc
    phôi người và các tế bào gốc đa năng cảm ứng, được gọi là tế bào iPS. Cũng hy vọng phát triển một
    phương pháp hiệu quả cho sản xuất tuyến yên trên người trong vài năm tới. Trong nghiên cứu này,
    số lượng mô để ghép được kiểm tra theo kinh nghiệm, nói cách khác thử và lỗi.

    Vates cho biết: “Mọi người đều nghĩ cấy ghép tế bào gốc để giúp người bị mất tuyến yên, nhưng mặt
    khác của nghiên cứu này có thể giúp chúng tôi bắt đầu tìm ra lý do tại sao một số người bị khối u
    tuyến yên, làm thế nào chúng tôi có thể tiến tới các phương phá điều trị tốt hơn cho việc kiểm soát
    khối u tuyến yên, và tuyến yên bị ảnh hưởng bởi các bệnh khác.”

    Phí Thị Lan

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

  • Aspirin làm giảm nguy cơ ung thư !!!

    Aspirin làm giảm nguy cơ ung thư !!!

    Aspirin là một trong những thuốc được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Gần đây, các
    nhà khoa học đã phát hiện thêm lợi ích mới kháng ung thư của aspirin ngoài công dụng giảm
    đau, hạ sốt thông thường. Giáo sư Peter Rothwell của thuộc viện Nuffield khoa thần kinh
    học lâm sàng của Đại học Oxford ở Anh và các đồng nghiệp đã công bố 3 nghiên cứu trên
    tạp chí The Lancet củng cố thêm bằng chứng rằng những người trung niên sử dụng aspirin
    liều thấp mỗi ngày có thể giúp ngăn ngừa ung thư, đặc biệt nếu họ có nguy cơ gia tăng bệnh.

    Theo các nghiên cứu của giáo sư Rowell cho thấy aspirin làm giảm nguy cơ di căn
    của ung thư và ngăn ngừa đau tim và đột quỵ. Các nhà nghiên cứu cho biết lợi ích kháng
    ung thư có thể đạt được bằng việc sử dụng aspirin liều thấp hàng ngày trong
    khoảng 2 – 3 năm thay vì 10 năm như các nghiên cứu trước.

    Trong nghiên cứu đầu tiên, Rothwell và các đồng nghiệp đã tổng hợp dữ liệu từ 51 thử
    nghiệm ngẫu nhiên lâm sàng đặt ra để so sánh tác dụng của liều aspirin hàng ngày so
    với không dùng thuốc trên các biến cố tim mạch như đau tim, đột quỵ và ung thư.

    Từ những kết quả thu được họ kết luận rằng aspirin làm giảm nguy cơ tử vong ung thư
    15% và tỉ lệ này tăng lên với việc sử dụng kéo dài. Ví dụ, đối với những người đã cho 5 năm
    hoặc nhiều hơn, giảm nguy cơ tử vong do ung thư là 37%. Sau ba năm sử dụng aspirin, giảm
    tỷ lệ mắc ung thư là 23% ở nam giới và 25% ở phụ nữ.

    Trong nghiên cứu thứ hai của họ, Rothwell và các đồng nghiệp đã kiểm tra hiệu quả
    của việc sử dụng aspirin trên di căn, ung thư lây lan từ các vị trí ban đầu đến các bộ phận
    khác của cơ thể. Đối với điều này, họ tổng hợp dữ liệu từ 5 thử nghiệm ngẫu nhiên lớn Anh
    điều tra sử dụng thuốc aspirin trong việc ngăn ngừa bệnh tim và bổ sung thêm thông tin từ sổ
    ung thư và các hệ thống xác nhận tử vong.

    Kết quả cho thấy rằng việc sử dụng thuốc aspirin đã dẫn tới sự giảm nguy cơ ung thư
    lan đến các bộ phận khác của cơ thể. Giảm nguy cơ là 36% so với thời gian nghiên cứu trung
    bình là 6,5 năm và đã không thay đổi theo tuổi tác hay giới tính.

    Trong nghiên cứu thứ ba của họ, một trong những công bố trên The Lancet Oncology,
    Rothwell và các đồng nghiệp một lần nữa kiểm tra tác động của aspirin trên nguy cơ ung thư,
    nhưng lần này họ có hệ thống xem xét quan sát nghiên cứu (phân loại theo một nhóm người
    theo thời gian) chứ không phải là thử nghiệm lâm sàng nơi mà người tham gia được phân
    ngẫu nhiên vào nhóm điều trị khác nhau.

    Phân tích này xác nhận kết quả mà họ đã tìm thấy từ những phân tích thử nghiệm ngẫu
    nhiên: giảm nguy cơ tương tự. Về việc ngăn chặn nguy cơ di căn, phát hiện của họ cho thấy
    hiệu quả lớn nhất là trong các loại ung thư ruột và ung thư đại trực tràng nói riêng. Nó cũng
    bao gồm hầu hết các ung thư vú và tuyến tiền liệt, và một số ung thư phổi.

    Tuy nhiên, việc dùng aspirin hàng ngày không phải là không có rủi ro. Về căn bản,
    aspirin không phải là một loại thuốc vô hại và đối với một số người, tác dụng phụ làm sự

    gia tăng nguy cơ của xuất huyết nội, đặc biệt trong dạ dày và có nhiều khả năng đột quỵ khi
    ngưng sử dụng thuốc hàng ngày. Ngay trong vấn đề này, Rothwell và các đồng nghiệp cho
    biết hai phát hiện mới cho thấy tác hại của aspirin có thể ít nghiêm trọng hơn so với suy nghĩ
    trước đây. Một là nguy cơ chảy máu dạ dày xuất hiện để giảm việc sử dụng kéo dài, và nguy
    cơ tử vong do chảy máu dạ dày với aspirin không lớn hơn so với giả dược. Họ lập luận rằng
    khi cân bằng giữa rủi ro và lợi ích thì nguy cơ chảy máu nội tạng ít có hại với người bệnh hơn
    so với việc tàn tật hay tử vong do ung thư, đột quỵ và đau tim. Họ đề nghị, trong điều kiện tối
    ưu và đặc biệt với việc sử dụng kéo dài, lợi ích làm giảm nguy cơ ung thư của aspirin tốt hơn
    so với đau tim và đột quỵ.

    Ngoài ra có tiềm năng xung đột với các thuốc khác. Ví dụ, một tác dụng của aspirin là
    nó giúp ngăn ngừa đông máu do ức chế sinh tổng hợp thromboxane, một prostaglandin đông
    máu được sản xuất bởi tiểu cầu. Vì vậy, những người đang sử dụng các chất chống đông hay
    chất pha loãng máu không nên dùng aspirin, trừ khi chỉ dẫn của bác sĩ.

    Các chuyên gia đang kêu gọi chính phủ phân tích và tư vấn về việc sử dụng aspirin để
    ngăn ngừa ung thư. Trong báo cáo của Rothwell và các đồng nghiệp, nhấn mạnh nhu cầu cấp
    thiết cho các thử nghiệm mới để xác nhận những lợi ích này.

    Nguyễn Thị Kiều Oanh

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

    (gaumeoadi@gmail.com)