Author: tcnhat

  • SỰ HÌNH THÀNH CÁC “MẠCH MÁU MÔ PHỎNG” LIÊN QUAN ĐẾN  KHẢ NĂNG DI CĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

    SỰ HÌNH THÀNH CÁC “MẠCH MÁU MÔ PHỎNG” LIÊN QUAN ĐẾN KHẢ NĂNG DI CĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

    Nhóm nghiên cứu của phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor và viện CRUK thuộc đại học Cambridge (nước Anh) đã cho thấy khả năng hình thành hệ thống ống dẫn có chức năng tương tự mạch máu của các tế bào ung thư là một trong những nguyên nhân dẫn đến di căn trên chuột mô hình.

    NTLHuyen-1

    Hình: Hai khu vực liền kề của một khối u vú chuột. Mô bên trái được nhuộm để xác định mạch máu bình thường (mũi tên màu đen) và các kênh chứa đầy máu (mũi tên màu xanh). Mô bên phải: protein biểu hiện trên tế bào khối u được nhuộm với chất phát huỳnh quang, nhờ đó ta có thể thấy các kênh chứa đầy máu thực sự được tạo thành bởi các tế bào khối u, các kênh này được gọi là “mạch máu mô phỏng”.

    Các tế bào của khối u có khả năng tạo ra một hệ thống ống dẫn nhằm đưa máu đi đến nhiều nơi trong khối u. Hệ thống ống này sẽ cung cấp oxy và chất dinh dưỡng để nuôi dưỡng các tế bào ở nhiều vùng khác nhau trong khối u, tương tự như vai trò của các mạch máu trong cơ thể, vì thế chúng được gọi là các “mạch máu mô phỏng”.

    Trong nghiên cứu này, 2 gen được tìm thấy đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành các mạch máu mô phỏng là Serpine2 và Slpi. Sự giảm biểu hiện của chúng trong khối u sơ cấp sẽ dẫn đến sự giảm thiểu hình thành hệ thống mạch này.

    Hệ thống mạch máu mô phỏng tạo điều kiện cho các tế bào của khối u đi vào dòng máu, di chuyển và hình thành khối u tại một vị trí khác trong cơ thể. Sự biểu hiện quá mức Serpine2 và Slpi cũng cho phép các tế bào ung thư vào dòng máu nhiều hơn, dễ dẫn đến di căn. Điều nay được chứng minh trong một nghiên cứu trước đó khi một trường hợp bệnh nhân có ung thư di căn vào phổi được tìm thấy có sự biểu hiện quá mức 2 gen này.

    Việc tìm ra Serpine 2 và Slpi đã mở ra một hướng tiếp cận mới cho liệu pháp trị liệu ung thư- tác động trúng đích vào protein được mã hóa từ các gen này nhằm ngăn việc hình thành khối u thứ phát và ức chế sự xâm lấn của khối u.

    Trong những năm gần đây, việc sử dụng thuốc ức chế hình thành mạch máu trong điều trị ung thư  đã được tiến hành, tuy nhiên hiệu quả không được như mong đợi. Sự xuất hiện của các mạch máu mô phỏng trong khối u có thể được xem là câu trả lời cho kết quả này, vì với sự có mặt của chúng, khối u vẫn được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và oxy để phát triển. Như vậy chúng ta có quyền hy vọng rằng tác động đồng thời vào mạch máu và mạch máu mô phỏng của khối u sẽ đem lại những kết quả khả quan hơn trong điều trị ung thư.

    Lam Huyên dịch

    Theo Sciencedaily

  • “MỞ” NHIỄM SẮC THỂ CỦA TẾ BÀO GỐC TIẾT LỘ NHỮNG KHẢ NĂNG MỚI CHO BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

    “MỞ” NHIỄM SẮC THỂ CỦA TẾ BÀO GỐC TIẾT LỘ NHỮNG KHẢ NĂNG MỚI CHO BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

    “MỞ” NHIỄM SẮC THỂ CỦA TẾ BÀO GỐC TIẾT LỘ NHỮNG KHẢ NĂNG MỚI CHO BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

     

    Hiện nay, tế bào gốc mang lại hy vọng điều trị rất nhiều bệnh. Tế bào gốc là loại tế bào duy nhất có khả năng biệt hóa, chuyên môn hóa thành một trong hàng trăm loại tế bào có trong cơ thể con người. Tuy nhiên việc khai thác được tiềm năng này của tế bào gốc là một khó khăn lớn.  Để có thể giúp các tế bào gốc biệt hóa, các nhà khoa học cần phải bổ sung các nhân tố tăng trưởng nhất định vào các thời điểm cụ thể trong các giai đoạn tăng sinh và phát triển của chúng. Trong một số trường hợp, cần đến bảy bước để có thể biệt hóa tế bào gốc thành tế bào mong muốn. Điều này lại càng khó khăn hơn trong trường hợp của các tế bào gan, ruột và tuyến tụy. Trong bài báo đăng trên tạp chí Cell Stem Cell ngày 2 tháng 4 năm 2015, các nhà nghiên cứu tại Khoa Y, thuộc đại học California – San Diego (UC San Diego) đã phát hiện ra lý do tại sao.

    a2

    Hình: Những tế bào tuyến tụy có nguồn gốc từ tế bào gốc phôi

    Nguồn: UC San Diego School of Medicine

     

    Nghiên cứu của họ chỉ ra rằng nhiễm sắc thể của các tế bào gốc được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm đã “mở” dần theo thời gian, giống với các quá trình xuất hiện trong sự phát triển của phôi. Tuy nhiên, dù những vùng nhất định trên nhiễm sắc thể đã ở trạng thái “mở”,  cũng chưa chắc chắn được các tế bào gốc có thể đáp ứng lại các nhân tố tăng trưởng được bổ sung và phát triển thành các tế bào gan và tụy. Với những khám phá này, các nhà nghiên cứu nhận thấy sẽ giúp thúc đẩy sự tiến bộ trong nghiên cứu tế bào gốc nói chung và sự phát triển của liệu pháp tế bào mới cho các bệnh về gan và tuyến tụy nói riêng, chẳng hạn như bệnh đái tháo đường tuýp 1.

    Tiến sĩ y khoa Maike Sander, hiện là giáo sư nhi khoa, y học tế bào và phân tử, đồng thời là giám đốc của Trung tâm nghiên cứu nhi khoa về bệnh đái tháo đường tại UC San Diego cho biết khả năng để họ tạo ra các tế bào gan và tuyến tụy từ tế bào gốc thấp hơn so với những tiến bộ đã thực hiện trên các loại tế bào khác. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu vẫn chưa thể tiến hành các nghiên cứu như thử thuốc trên các tế bào gan và tụy có nguồn gốc từ tế bào gốc. Cũng qua đó họ nhận thấy rằng để có thể tạo ra được tế bào cụ thể từ tế bào gốc thì cần phải có những cách dự đoán trước được tế bào gốc và nhiễm sắc thể của chúng sẽ đáp ứng như thế nào với các yếu tố tăng trưởng được bổ sung trong quá trình biệt hóa.

    Nhiễm sắc thể là những cấu trúc được hình thành do sự xoắn chặt và đóng gói DNA. Ở người có 46 nhiễm sắc thể, trong đó 23 nhiễm sắc thể thừa hưởng từ người cha và 23 chiếc còn lại nhận từ người mẹ. M.Sander cùng tiến sĩ Bing Ren, đồng tác giả nghiên cứu tại UC San Diego và các cộng sự lần đầu tiên đã lập được các bản đồ nhiễm sắc thể thay đổi theo thời gian của tế bào gốc từ giai đoạn phôi, biệt hóa qua các giai đoạn phát triển trung gian để trở thành các tế bào gan và tụy. Sau đó, dựa trên việc phân tích các bản đồ này, họ khám phá ra được mối liên hệ giữa khả năng tiếp cận (mở) các vùng nhiễm sắc thể xác định và khả năng phát triển của chúng (được hiểu là khả đáp ứng của tế bào với các yếu tố kích hoạt như là các nhân tố tăng trưởng được bổ sung trong quá trình nuôi cấy).

    Sander cho biết nhóm nghiên cứu của ông đang tìm kiếm những vùng nhiễm sắc được liên kết với những vùng biến đổi trong những tình trạng bệnh nhất định – những vùng nhiễm sắc thể mà cần phải “mở” trước khi một tế bào gốc có thể biệt hóa hoàn toàn.

    Trên thực tế, nếu một người thừa hưởng di truyền một vùng nhiễm sắc thể bị biến đổi (biến thể), nhiễm sắc thể của người đó có thể sẽ không mở ra đúng thời điểm. Điều này sẽ làm người đó có thể nhạy cảm hơn với một căn bệnh liên quan đến một loại tế bào nào đó (ví dụ như sự suy thoái các tế bào beta của tuyến tụy sẽ gây nên bệnh đái tháo đường). Hiện nay, nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Sander vẫn đang tiếp tục để tìm hiểu vai trò của các vùng nhiễm sắc thể và các biến thể của chúng đối với bệnh đái tháo đường. Nếu nghiên cứu này thành công sẽ có thể mở ra một hướng điều trị mới dựa trên liệu pháp tế bào trong điều trị bệnh đái tháo đường trong tương lai.

    Bùi Nguyễn Tú Anh dịch

    Theo ScienceDaily

    Email: bntanh@hcmus.edu.vn

    Link bài báo http://www.sciencedaily.com/releases/2015/04/150402132751.htm

     

  • LIỆU PHÁP TẾ BÀO GỐC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐEM LẠI NHIỀU HỨA HẸN

    LIỆU PHÁP TẾ BÀO GỐC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐEM LẠI NHIỀU HỨA HẸN

    LIỆU PHÁP TẾ BÀO GỐC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐEM LẠI NHIỀU HỨA HẸN

    Trong một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Stem Cell Reports ngày 19 tháng 3 năm 2015 vừa qua, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một phương pháp điều trị mới bằng cách kết hợp cấy ghép tế bào gốc và thuốc trị đái tháo đường. Theo đó, phương pháp này đã giúp điều trị thành công trên mô hình chuột bị đái tháo đường tuýp 2 và mang lại nhiều hứa hẹn trong điều trị lâm sàng.

    Trưởng nhóm nghiên cứu này là Timothy Kieffer, hiện làm việc tại đại học British Columbia, Canada. Ông cùng các cộng sự của mình cho biết nghiên cứu này có thể dẫn đường cho liệu pháp đầu tiên sử dụng tế bào gốc thay thế cho việc sử dụng insulin để thử nghiệm trên các bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2.

    Người ta ước tính có khoảng 29 triệu người Mỹ mắc bệnh đái tháo đường. Trong đó, số người mắc đái tháo đường tuýp 2 chiếm 90 – 95% số ca bệnh. Tình trạng này là kết quả của việc cơ thể không có khả năng sản xuất đủ số lượng hormone (insulin) hoặc sử dụng insulin không hiệu quả. Điều đó làm lượng đường trong máu tăng cao hơn so với bình thường.

    Để kiểm soát lượng đường trong máu, bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 thường được điều trị bằng thuốc uống như metformin hay tiêm insulin, đôi khi là áp dụng cả hai. Tuy nhiên, Kieffer và cộng sự nhấn mạnh rằng phương pháp điều trị như vậy có thể gây ra các vấn đề về tiêu hóa, tăng cân và làm hàm lượng đường trong máu thấp, trong một số trương hợp bệnh nhân có thể không đáp ứng được với thuốc.

    Với những nguyên nhân đó, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm một phương pháp điều trị thay thế tiềm năng cho các bệnh nhân bị bệnh tiểu đường tuýp 2 là ghép tế bào beta nhằm cải thiện quá trình trao đổi glucose và tăng độ nhạy với insulin.

    Trong nghiên cứu của mình, họ đã tạo ra mô hình chuột mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 bằng cách cung cấp chế độ ăn giàu chất chất béo. Bằng phương pháp này, họ đã tạo được những con chuột  béo phì có mức đáp ứng insulin thấp và đường huyết tăng cao.

    Tiếp theo, nhóm nghiên cứu tiến hành đóng gói các tế bào tiền thân tụy có nguồn gốc từ tế bào gốc phôi và cấy ghép lên các con chuột đã tạo mô hình của họ. Những tế bào này sẽ phát triển thành các tế bào beta – một loại tế bào trong tuyến tụy có chức năng sản xuất insulin – có đầy đủ chức năng. Kết quả cho thấy những con chuột được ghép tế bào có sự trao đổi glucose tốt hơn đồng thời cải thiện sự đáp ứng với insulin.

    a1

    Hình: Các tế bào beta tuyến tụy có nguồn từ tế bào gốc phôi người sau cấy ghép.

    Nguồn : Jennifer Bruin, Đại học British Columbia

     

    Hơn thế nữa, nhóm nghiên cứu nhận thấy ở những con chuột được cấy ghép tế bào gốc có kết hợp với các thuốc trị đái tháo đường có trọng lượng giảm nhanh chóng. Đồng thời, khi so sánh với các phương pháp điều trị đơn lẻ khác thì có cải tiến lớn trong quá trình chuyển hóa glucose.

    Kieffer và các đồng nghiệp đang có kế hoạch tiến hành cấy ghép nhiều tế bào beta trưởng thành hơn vào các mô hình chuột mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 thay vì tế bào tiền thân tụy để có thể giảm nhanh các triệu chứng khi tiêm liều thấp hơn.

    Các nhà nghiên cứu tin rằng cách tiếp cận của họ có thể được thử nghiệm lâm sàng trên người, đặc biệt là khi trước đó một kỹ thuật tương tự đã được thông qua bởi Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và Bộ Y Tế Canada cho phép thử nghiệm ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 1.

    Kieffer nhận xét: “Thành công của thử nghiệm lâm sàng có thể mở đường cho việc áp dụng phương pháp điều trị này trên bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2. Chúng tôi hy vọng rằng phương pháp điều trị bằng tế bào gốc nhằm thay thế insulin cuối cùng sẽ cải thiện được khả năng kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 1 và tuýp 2, đồng thời cho kết quả tốt về sức khỏe và cải thiện được tuổi thọ ở người bệnh”.

    Bùi Nguyễn Tú Anh dịch

    Theo MedicalNewsToday

    Email: bntanh@hcmus.edu.vn

    Link bài báo http://www.medicalnewstoday.com/articles/291244.php

     

     

  • CÁC TẾ BÀO MIỄN DỊCH CÓ THỂ GÂY CHẾT CÁC TẾ BÀO THẦN KINH TRONG NÃO

    CÁC TẾ BÀO MIỄN DỊCH CÓ THỂ GÂY CHẾT CÁC TẾ BÀO THẦN KINH TRONG NÃO

    CÁC TẾ BÀO MIỄN DỊCH CÓ THỂ GÂY CHẾT CÁC TẾ BÀO THẦN KINH TRONG NÃO

    Vùng liềm đen – substania nigra ở não giữa với các tế bào sản xuất dopamine là trung tâm kiểm soát hầu hết sự chuyển động của cơ thể. Sự chết đi của các tế bào thần kinh này là nguyên nhân chính gây ra bệnh Parkinson với các triệu chứng chuyên biệt là cử động chậm, run rẩy và cứng cơ. Nguyên nhân gây nên bệnh này vẫn được làm rõ, chỉ có thể chỉ ra các nguyên nhân nguy cơ dựa trên các nghiên cứu dịch tể. Nghiên cứu mới của Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Đức cho thấy hệ tế bào miễn dịch ngoại biên từ máu vào não có thể góp phần gây chết cho các tế bào tiết dopamine trên.

    Các nghiên cứu gần đây cho thấy các phản ứng viêm trong não là nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh Parkinson ở người. Nhưng vẫn chưa xác định được các phản ứng viêm xuất phát từ trong   não hay từ hệ miễn dịch bẩm sinh của cơ thể. Để giải quyết câu hỏi này, nhóm nghiên cứu của GS TS Ana Martin-Villalba thực hiện nghiên cứu với mục tiêu là thụ thể CD95 và ligand của nó CD95L. Cặp đôi thụ thể ligand CD95 là thụ thể “chết” đã được phát hiện có liên quan đến các tế bào thần kinh chết trong bệnh Parkinson.

    Thí nghiệm được thực hiện trên các mô hình chuột gây đột biến không biểu hiện các gene CD95 trong tế bào sản xuất dopamine của não hoặc CD95L của các tế bào dòng tủy. Các con chuột được cảm ứng với MPTP, một chất gây chết đặc hiệu cho các tế bào tiết dopamine. Kết quả cho thấy thụ thể CD95 không có vai trò ảnh hưởng đến hiệu quả gây chết tế bào của MPTP. Nhưng một kết quả hoàn toàn ngược lại là sự không biểu hiện của ligand CD95L của nó biểu hiện trên các tế bào dòng tủy như tế bào đơn nhân, đại thực bào, bạch cầu trung tính và tế bào thần kinh đệm làm giảm đáng kể tác động của MPTP lên tế bào tiết dopamine trong não. Một thí nghiệm khác được thực hiện với dược chất APG112 có tác dụng ức chế hoạt động của ligand CD95L cũng cho kết quả giảm tác dụng gây chết tế bào thần kinh của MPTP. Cả hai thí nghiệm đều cho thấy có sự giảm đáng kể lượng các loại tế bào miễn dịch đi đến các vùng trong não. Các thí nghiệm tiếp theo chứng minh rằng sự giảm hoạt động của ligand CD95L làm giảm khả năng di cư của các tế bào hệ miễn dịch đi qua hàng rào máu não đến vùng liềm đen và kích hoạt các phản ứng gây chết tế bào tiết dopamine.

    Các kết quả trên mô hình chuột trên cũng được nhận thấy ở người bị bệnh Parkinson. Chỉ số lượng tế bào đơn nhân (monocytes) trong mẫu máu người bệnh Parkinson cao hơn hẳn so với người bình thường, đặc biệt là ở những người giai đoạn bệnh nghiêm trọng. Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa xác định được liệu rằng các tế bào đơn nhân này có xâm nhập vào trong não người như ở chuột hay không.

    GS.TS Martin-Villalba cho biết: “Theo những kết quả này, những dược chất ức chế ligand CD95L có thể làm giảm các triệu chứng bệnh Parkinson ở người như ở chuột.” Dược chất được sử dụng trong nghiên cứu hiện nay đang được thử nghiệm ở Pha II của lâm sàng mở ra hi vọng cho chữa trị hiệu quả bệnh Parkinson cũng như các bệnh thoái hóa thần kinh khác.

     

    d1

    Hình: Dược chất bất hoạt CD95L làm giảm sự xâm nhập các tế bào dòng tủy vào vùng liềm đen.

     

    (A) Các tế bào thần kinh đệm dương tính với tdTomato, tế bào đơn nhân âm tính tdTomato.

    (B)  Các tế bào đơn nhân CD11b+/tdTomato- xâm nhập trong vùng não.

    (C)  Kết quả định lượng tế bào đơn nhân monocytes xâm nhập vùng liềm đen ở lô chuột tiêm MPTP và lô chuột liêm MPTP và APG112.

    Lê Minh Dũng

    Theo neuroscientistnews.com

    lmdung@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://www.neuroscientistnews.com/research-news/migrating-immune-cells-promote-nerve-cell-demise-brain

  • NHỮNG ĐỘT BIẾN TRONG KHỐI U ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ XÂY DỰNG VACCINE CHO UNG THƯ

    NHỮNG ĐỘT BIẾN TRONG KHỐI U ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ XÂY DỰNG VACCINE CHO UNG THƯ

    Những nỗ lực sơ bộ của con người nhằm tạo ra những đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ.

    o1

    Vaccine cá nhân có thể mang lại những lựa chọn mới cho việc điều trị ung thư do nhiều đột biến di truyền.

    Trong một thử nghiệm lâm sàng nhỏ, vaccine được làm từ những protein đột biến được tìm thấy trong những khối u giúp ích cho những đáp ứng của hệ miễn dịch với ung thư.

    Những kết quả mới nhất từ sự cố gắng không ngừng nghỉ trong việc tạo ra những liệu pháp ung thư cá nhân hóa đã được công bố vào ngày 2 tháng 4 năm 2015 trên tạp chí Nature. Trong trường hợp này, ba bệnh nhân với khối u ác tính được nhận những vaccine, được thiết kế từ những protein bị đột biến được tìm thấy trong những khối u của họ, để cảnh báo hệ miễn dịch.

    Ton Schumacher, một nhà nghiên cứu ung thư tại Viện Ung thư Hà Lan tại Amsterdam cho rằng còn quá sớm để nói rằng liệu những kết quả đáp ứng miễn dịch sẽ đủ để kiềm hãm sự tăng trưởng của khối u nhưng thử nghiệm này là bằng chứng chủ yếu của ý tưởng đó.  Ông nói, “Chúng tôi thực sự không biết bằng cách mạnh mẽ nào mà một đáp ứng miễn dịch có ý nghĩa trong thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, nó là một bước tiến quan trọng”.

    Ung thư là một bệnh di truyền do những đột biến làm tế bào tăng sinh không kiểm soát. Nhưng những protein đột biến được tạo ra bởi những tế bào ác tính có thể hoạt động như một cuộc gọi cảnh báo với những tế bào miễn dịch, trong một ý nghĩa nào đó sẽ báo hiệu sự hiện diện của tế bào, là một tác nhân “lạ”.

    Không may là, nhiều cuộc gọi đó đã không bao giờ được nghe thấy. Một số khối u ngăn chặn những đáp ứng miễn dịch lân cận (nearby immune responses) và những protein đột biến của khối u có thể không biểu hiện ở mức độ đủ cao để tập hợp những tế bào miễn dịch. Nhà miễn dịch học Beatriz Carreno của trường Đại học Washington ở St.Louis, Missouri cho biết, từ lâu, những nhà nghiên cứu đã mơ ước về việc sử dụng những protein bị đột biến đó để tạo ra một loại vaccine, nhưng vẫn còn thiếu tiền cho những công nghệ để làm việc đó.
    Thành công lâm sàng
    Sự xuất hiện của việc giải trình tự bộ gen ung thư và những hiểu biết về việc cải thiện hệ thống miễn dịch đã tập hợp với nhau, làm cho những tiếp cận đó trở nên khả dĩ. Năm 2014, hai nhóm nghiên cứu đã cho thấy những vaccine đó có thể hoạt động trên chuột. Hiện nay, Carreno và cộng sự đã đưa những cách tiến cận đó đến gần hơn với con người.
    Các nhà nghiên cứu đã giải trình tự bộ gen những khối u trong những mẫu bệnh phẩm được lấy từ ba người có khối u ác tính và liệt kê những protein bị đột biến trong mỗi mẫu đó. Sau đó, họ chọn 7 protein/bệnh nhân để sử dụng làm vaccine.
    Những tế bào bạch cầu được lấy từ mỗi bệnh nhân và được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm để tạo ra các tế bào miễn dịch, gọi là những tế bào tua. Sau đó, những tế bào này được tiếp xúc với các mảnh vỡ của protein, cho phép chúng trưởng thành trong phòng thí nghiệm và sau đó được truyền vào bệnh nhân. Đến lúc đó, những tế bào tua đã được tiếp xúc với những mảnh vỡ protein và có khả năng trình diện những mảnh vỡ protein đó với những tế bào miễn dịch của cơ thể. Kết quả: Những tế bào miễn dịch đã được huấn luyện với mục tiêu là những protein đột biến được tạo bởi khối u. Thật vậy, những tế bào miễn dịch hiện diện rõ ràng trong máu bệnh nhân hai tuần sau khi gây đáp ứng miễn dịch.
    Schumacher nói, trong nhiều thập kỉ qua, các nhà nghiên cứu đã có gắng để phát triển các vaccine cho ung thư, nhưng những dấu hiện thành công ban đầu có xu hướng nhường đường cho những thất vọng trong những thử nghiệm lâm sàng rộng lớn hơn. Điều này cũng có thể đúng trong trường hợp này, nhưng cũng có lý do để chúng ta có thể hy vọng. Những vaccine trước đây được làm từ những protein của tế bào bình thường, nhưng điều đơn giản là chúng xuất hiện phong phú hơn trong khối u. Hệ miễn dịch được huấn luyện để chịu đựng những protein đó, vì thế những đáp ứng với những protein đó còn yếu, thậm chí là sau khi gây đáp ứng miễn dịch. Schumacher cũng ghi nhận rằng, trong trường hợp này, những protein không có trong những tế bào bình thường và vì thế nói tạo ra một đáp ứng mạnh mẽ hơn.
    Carreno thêm vào rằng những vaccine cũ cũng liên quan chung đến chỉ một protein liên quan đến ung thư. Những vaccine của Ông dựa trên 7 protein. Carreno nghĩ rằng hướng tiếp cũng có thể hoạt động trên những bệnh ung thư khác nhau chứa một loạt những đột biến như khối u phổi, đại tràng và bàng quang. Và mặc cho những thủ tục phức tạp, những công ty dược phẩm cho thấy rằng họ sẵn sàng đương đầu với những phức tạp vì liệu pháp ung thư cá nhân. Carreno nói “Các con đường để xác định những protein bị đột biến sẽ có được nhiều hiệu quả hơn theo thời gian” và “liệu pháp này không phức hơn những liệu pháp khác đang được xem xét hiện nay.”
     
    Kiều Oanh dịch
    Theo Nature
     
    ngtkoanh@hcmus.edu.vn
    Link bài báo: http://www.nature.com/news/tumour-mutations-harnessed-to-build-cancer-vaccine-1.17250
  • THUỐC KÍCH HOẠT DNA-PK NGĂN CHẶN SỰ SAO CHÉP CỦA VIRUS HIV

    THUỐC KÍCH HOẠT DNA-PK NGĂN CHẶN SỰ SAO CHÉP CỦA VIRUS HIV

     

    Một nghiên cứu mới từ Mĩ cho thấy virus gây suy giảm miễn dịch trên người (HIV) là nguyên nhân làm các tế bào miễn dịch lây nhiễm bị phá huỷ. Các nhà nghiên cứu tin rằng phát hiện này là một điều rất quan trọng giúp bảo tồn hệ thống miễn dịch của con người tránh khỏi lây nhiễm virus  HIV, nguyên nhân dẫn đến AIDS

    HIV đã truyền nhiễm đến hơn 60 triệu người và giết chết gần 30 triệu người trên toàn thế giới. Qua mỗi ngày, những người bị nhiễm bệnh sẽ bị virus HIV phá huỷ hàng triệu tế bào chống nhiễm trùng TCD4+ cho đến khi hệ thống miễn dịch không còn khả năng tái tạo hoặc chống lại các nhiễm trùng khác.

    n2

     

     

    Khi tế bào nhiễm HIV, enzyme integrase của virus sẽ phá vỡ cấu trúc đôi trong DNA tế bào chủ và chèn bản sao DNA của chúng vào bộ gen RNA

    Virus hoạt động theo nhiều cách khác nhau, một trong số đó là giết các tế bào một cách trực tiếp. Virus HIV chiếm quyền điều khiển các tế bào và sử dụng  nguồn tài nguyên này để nhân bản chính nó. Các bản sao phát triển dạng chồi và phá vỡ màng tế bào. Quá trình này sẽ giết chết các tế bào, nói một cách khác là virus HIV trực tiếp giết các tế bào chủ bằng cách làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của chính tế bào.

    Và một nguyên nhân khác giết chết các tế bào chủ là khi hệ thống tế bào chủ bị phá hoại do bị sử dụng để nhân bản virus. Điều này có thể kích hoạt  sự chết theo chương trình của tế bào hay còn gọi là  apoptosis.

    Arik Cooper, tác giả chính và các cộng sự thuộc Viện nghiên cứu về dị ứng và các bệnh truyền nhiễm, trực thuộc Viện nghiên cứu sức khoẻ Quốc gia,  đã tiết lộ cơ chế cơ bản của quá trình đó.Khi Virus HIV xâm nhập vào tế bào chủ, nó sẽ bắt đầu tái lập trình bộ máy tạo protein của nó bằng cách chèn gen của chính nó vào DNA của tế bàoCooper và các đồng nghiệp đã phát hiện ra rằng trong suốt bước chèn này, một enzyme của tế bào gọi là protein kinase phụ thuộc DNA ( DNA-PK) sẽ được kích hoạt.  Loại enzyme này sẽ giúp sửa chữa mạch kép bị thương tổn trong các phân tử cấu tạo nên ADNNhưng khi các virus HIV tích hợp gen của chính nó vào ADN tế bào chủ, kết quả là sợi đơn bị phá vỡ tại các điểm chèn.

    Cooper và các đồng nghiệp đã phát hiện ra rằng sự phá vỡ ADN xảy ra trong suốt quá trình virus HIV kết hợp với kích hoạt DNA-PK, sau đó nó sẽ thực hiện vai trò phá hoại bất thường, gây ra tín hiệu dẫn đến sự chết theo chương trình  ở tế bào TCD4+

    Họ kết luận rằng”Chúng tôi đề xuất kích hoạt DNA-PK trong suốt quá trình hoà hợp của virus trong tế bào chủ có vai trò trung tâm trong sự suy giảm của tế bào TCD4+. Phát triển khả năng các chất ức chế intergrase và can thiệp hướng vào DNA-PK có thể cải thiện khả năng sinh tồn của tế bào T và chức năng miễn dịch ở những người bị nhiễm bệnh.

    Nói cách khác, nó có thế chữa trị HIV cho những người bệnh đang trong giai đoạn đầu bằng cách đưa họ những loại thuốc có thể ngăn chặn sự sao chép đầu tiên của virus, bao gồm cả việc kích hoạt DNA-PK.

    Không chỉ có thể  ngăn chặn virus sao chép chính nó, mà còn đủ khả năng bảo vế các tế bào TCD4+ và giữ cho hệ thống miễn dịch có thể chống lại nhiễm trùng.

    Các nhà nghiên cứu cũng gợi ý ra những phát hiện giúp giải thích sự hình thành nguồn tế bào nhiễm HIV đang trong giai đoạn nghỉ và cung cấp các đầu mối để loại bỏ chúng.

    Trong một nghiên cứu khác được công bố gần đây trên tạp chí Nature, nhóm các nhà nghiên cứu khác ở Mỹ đã lần đầu tiên, với sự hỗ trợ của các siêu máy tính, đã phá vỡ các cấu trúc hoá học của vỏ capsid hay vỏ protein của HIV.

    Vũ Bích Ngọc dịch

    Theo Medicalnewstoday

    vbngoc@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://www.medicalnewstoday.com/articles/261597.php?sr

  • Đột biến gen ETV6 làm tăng nguy cơ ung thư máu

    Đột biến gen ETV6 làm tăng nguy cơ ung thư máu

    Bệnh bạch cầu là một loại bệnh ung thư các tế bào bạch cầu. Bệnh bạch cầu cấp tính đề cập đến tình trạng phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, cần phải điều trị ngay lập tức. Nghiên cứu, được tiến hành bởi  Trường đại học của Trung tâm ung thư Colorado, đã phát hiện nguyên nhân di truyền của bệnh bạch cầu lymphocytic cấp tính ( ALL) do một đột biến của gen ETV6

     

    Sự đột biến của gen BRCA ở người, sẽ có nguy cơ cao bị mắc bệnh ung thư vú và buồng trứng (điển hình là Angelina Jolie). Việc xác định đột biến gen ETV6 có thể cho phép các bác sĩ chẩn đoán hướng phát triển ALL ở người, theo cách tương tự.

     

    Phát hiện về đột biến gen ETV6 có thể giúp các bác sĩ trong việc tăng cường giám sát và phát triển các chiến lược ngăn chặn bệnh. Hiện có khoảng 30.000 trường hợp ALL được chẩn đoán ở Mĩ mỗi năm, với đa số trường hợp ở trẻ em độ tuổi 2-5. “Những người này được sinh ra với bộ gen bị hỏng và bộ gen đó gây ra ung thư .” Dr tiến Chris Porter, nhà nghiên cứu tại trung tâm Ung thư CU và là phó giáo sư tại khoa nhi trường Y CU phát biểu.

     

    n1

     

    Đột biến gen  ETV6 gây  ra bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tình (ALL)

     

    Porter chỉ ra rằng phát hiện này được khởi đầu với một gia đình có tỉ lệ ALL cao bất thường, tất cả trong số họ có đặc điểm giống nhau như tế bào hồng cầu lớn, lượng tiểu cầu thấp và có xu hướng dễ chảy máu. Thực tế là gia đình này có động lực máu bất thường và khuynh hướng di truyền phổ biến. Nhiệm vụ của các nhà khoa học là điều tra chính xác cái gì trong gen của gia đình họ đã gây ra các về máu. Các nhà nghiên cứu đã thực hiện “giải trình tự toàn bộ exome” tcủa ừng thành viên trong gia đình, nhưng người có nguy cơ mắc ALL để lấy bản chụp của từng gen sản xuất protein trong nhiễm sắc thế của họ

    ĐỘT BIẾN ETV6 và BỆNH ALL TRONG CÁC GIA ĐÌNH.

    Dữ liệu trình từ được phân tích bởi tiến sĩ Ken Jones, so sánh các hệ gen có nguy cơ phát triển thành ALL cao với những hệ gen khoẻ mạnh thông thường, sự khác biệt của hai bộ gen là đột biến gen ETV6

    Gen ETV6 đưa ra chỉ thị cho việc sản xuất protein có chức năng như một yếu tố phiên mã, điều này có nghĩa là nó gắn liền với các vùng ADN và điều khiển hoạt động của các gen nhất định. ETV6 tham gia vào sự phát triển của các tế bào máu. Trong các nghiên cứu trước, đột biến soma của gen ETV6 (Đột biến trong bộ gen mà khi mới sinh ra không phát hiện, chỉ sau này mới phát triển) có liên quan đến sự phát triển ung thư máu. Đột biến soma của gen ETV6 hỗ trợ cho các đột biến khác để gây ra ALL.

    Dù vậy, nghiên cứu này đã được công bố trên tạp trí Nature Genetics, là nghiên cứu đầu tiên trong hai bản báo cáo mới để chứng minh về đột biến “dòng mầm” của ETV6 (bất thường do di truyền và có mặt trong bộ gen lúc mới sinh) có thể là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư, điều này nhấn mạnh rằng các đột biến và nguy cơ gây bệnh có thể di truyền trong gia đình. Không giống với đột biến soma của gen ETV6 , một đột biến dòng mầm là nơi bệnh nhân tiến gần hơn đến sự phát triển bệnh ung thư từ khi mới sinh.

    Theo Porter và các đồng nghiệp, đột biến ETV6 không phổ biến trong dân số nói chung nhưng nó có thể phổ biến hơn nhiều ở những người ALL. Bình luận của Porter có ý nghĩa rằng trong số những người bị ALL sẽ có một số trường hợp là do đột biến gen ETV.

    Vũ Bích Ngọc dịch

    Theo Medicalnewstoday

    vbngoc@hcmus.edu.vn

    Link bài báo: http://www.medicalnewstoday.com/articles/291464.php

  • Stem Cell Lab Summer Tour 2015

    TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC TỰ NHIÊN-ĐHQG
    PTN NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG
    TẾ BÀO GỐC

    Số: 1905/QLSV

    CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

    Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 5 năm 2015

    THÔNG BÁO

    V/v Stem Cell Lab Summer Tour 2015

     

    Nhằm tạo điều kiện cho các em sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và các nhà khoa học có cơ hội được tiếp xúc với hệ thống Phòng thí nghiệm hiện đại trong lĩnh vực Y-Sinh-Dược học, nhằm đưa PTN gần hơn với các đối tượng quan tâm muốn học tâp, nghiên cứu và làm việc tại phòng thí nghiệm; PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc tổ chức chương trình Tham quan hè 2015 – Stem Cell Lab Summer Tour như sau:

    1/ Đối tượng

    Sinh viên ngành Sinh, CNSH (ưu tiên trường ĐHKHTN); các học viên cao học, nghiên cứu sinh, các nhà khoa học trong, ngoài nước có quan tâm.

    2/ Thời gian-Địa điểm

    Thời gian mở đăng ký: 19/5 – 15/6/2015

    Thời gian tham quan: 7g30 -8g00 thứ 3, 5, 6, 7 hàng tuần

    Địa điểm: PTN NC&UD TBG, tòa nhà B2-3, Cơ sở Linh Trung-Thủ Đức, Trường ĐH KHTN, ĐHQG TP. HCM

    3/ Cách thức đăng kí

    Mỗi buổi tham quan có 10 người tham dự. Sinh viên và các đối tượng quan tâm cần đăng kí trước theo link sau:

    https://goo.gl/3hRh0P

    Lưu ý: Cần làm đúng các bước và yêu cầu trong link đăng kí. Sinh viên/Người tham dự cần phải kiểm tra danh sách đã đăng kí nếu vượt quá 10 sinh viên mỗi ngày, sinh viên phải tự chủ động đăng kí qua ngày khác. PTN không giải quyết các trường hợp đăng kí nằm ngoài 10 chỉ tiêu hàng ngày.

    TM. PTN NC&UD TẾ BÀO GỐC

    PHÓ TRƯỞNG PHÒNG

    PHẠM VĂN PHÚC

  • Công nghệ phát triển mô ruột có chức năng từ tế bào gốc người

    Công nghệ phát triển mô ruột có chức năng từ tế bào gốc người

    Công nghệ phát triển mô ruột có chức năng từ tế bào gốc người

    Tờ Science Daily ngày 8 tháng 1 năm 2015 đã đưa tin “ Công nghệ phát triển mô ruột sử dụng tế bào người có chức năng”. Công trình này được nghiên cứu bởi nhóm tác giả đứng đầu là Tiến sĩ Tracy C. Grikscheit, Viện Nghiên cứu Saban của Bệnh viện Nhi đồng Los Angeles. Với công nghệ mô phát triển ruột non từ tế bào gốc người mang các đặc điểm có chức năng giống mô ruột người, dự án nghiên cứu đã tiến một bước gần hơn trong việc giúp đỡ các bệnh nhân bằng công nghệ y học tái tạo này.

    123456

    Ruột non được phát triển từ công nghệ mô mang các đặc điểm quan trọng của màng nhầy lớp niêm mạc và các cấu trúc hỗ trợ chức năng bao gồm khả năng hấp thụ đường, các thành phần có cấu trúc từ nhỏ đến siêu nhỏ như các kết nối giữa các tế bào.

    Công nghệ hình thành và phát triển ruột non xuất phát từ tế bào gốc tồn tại trong ruột và mang nhiều hứa hẹn trong điều trị hội chứng ruột ngắn (Short Bowel Syndrome -SBS). Hội chứng này là nguyên nhân chính dẫn đến hoạt động bất thường của đường ruột, đặc biệt ở trẻ sinh non và trẻ sơ sinh bị dị tật đường ruột bẩm sinh. Ruột non phát triển từ công nghệ này có thể cung cấp một liệu pháp điều trị thay thế cho kỹ thuật điều trị hiện tại, đó là cấy ghép ruột, và có tiềm năng giải quyết các thách thức đang đặt ra của cấy ghép ruột bao gồm: thiếu hụt tạng hiến tặng và bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch kéo dài nhằm duy trì tạng ghép.

    Tiến sĩ Grikscheit thực hiện nghiên cứu này nhằm hướng đến giúp đỡ các bệnh nhân trẻ tuổi có tình trạng bệnh nặng nhất, bao gồm trẻ em sinh non và phát triển bệnh theo hướng trầm trọng được gọi là Viêm ruột hoại tử (Necrotizing Enterocolitis – NEC). Tình trạng Viêm ruột hoại tử đe dọa cuộc sống của bệnh nhân bởi vì ruột non bị cắt bỏ một đoạn lớn phần ruột bị hủy hoại. Sau khi bị cắt bỏ một phần ruột, em bé không đủ chiều dài ruột nên phụ thuộc vào việc cho ăn qua tĩnh mạch. Phương pháp cho ăn này rất tốn kém và có thể gây hủy hoại gan. NEC và các nguyên nhân khác gây thất bại chức năng ruột xảy ra với tỉ lệ 24./100.000 trẻ em đang sống, và tỉ lệ các trường hợp SBS ngày càng tăng. Gần 1/3 trẻ em chết trong độ tuổi 5 tuổi.

    Trước đó, vào tháng 7 năm 2011, nhóm nghiên cứu của bệnh viện Nhi đồng Los Angeles đã đăng lên tạp chí Tissue Engineering kết quả sử dụng ruột non từ công nghệ mô trên mô hình chuột. Kết quả này chỉ xác định được các thành phần cơ bản của ruột. Nhưng để phù hợp cho ứng dụng lâm sàng, nghiên cứu này cần phải kiếm tra thêm chức năng của các thành phần như khả năng hình thành màng bảo vệ mà vẫn có thể hấp thu được chất dinh dưỡng hay đảm bảo cơ chế trao đổi điện thế chuyên biệt. Nghiên cứu mới chỉ ra ruột non từ công nghệ mô ở chuột có nét tương đồng cao với ruột non từ công nghệ mô ở người và cả hai đều chứa tế bào gốc và tế bào tiền thân. Chính các tế bào này sẽ góp phần tái tạo lại ruột giống phương pháp ghép ruột. Các tế bào gốc và tế bào tiền thân nằm ở một vị trí chuyên biệt trong mô kỹ nghệ và nằm gần với các tế bào đã có chức năng chuyên biệt.

    Các kết quả nghiên cứu trên đã mở ra hy vọng rất lớn cho các bệnh nhi bị tình trạng ruột ngắn bằng công nghệ mô sử dụng tế bào gốc.

    Nguyễn Thị Mỹ Phước dịch

    Theo Science Daily

  • 40 năm khoa học – công nghệ TP.HCM: Công nghệ tế bào gốc – giấc mơ và hiện thực

    Việt Nam chỉ mới đặt chân lên xa lộ tế bào gốc chưa lâu, điều kiện nhân lực và tài lực còn kém xa các nước phát triển, nhưng các nhà khoa học trong nước đã gặt hái được những thành tựu không nhỏ trong điều kiện nghiên cứu còn giới hạn.

    (Theo khoahocphothong.com.vn)

    Vào lúc 6 giờ 45 phút ngày 21/12/2007, một sự kiện được ghi nhận vào lịch sử khoa học Việt Nam: bầy cá ngựa vằn trong Phòng thí nghiệm tế bào gốc, Đại học quốc gia TP.HCM (ĐHQG-HCM) đã phát sáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Ánh sáng của con cá được tạo ra từ gen GFP có khả năng phát sáng được lấy từ sứa, kết hợp với các hạt kim loại vàng nghiền nhỏ, được chuyển vào phôi trứng cá bằng phương pháp bắn gen. Với thành tựu này, ThS. Phan Kim Ngọc cùng các cộng sự của mình đã ghi tên Việt Nam vào nhóm ít các nước có thể chuyển gen động vật.

    Hiện thực hóa giấc mơ của loài người

    Công nghệ chuyển gen là đỉnh cao của công nghệ sinh học, và càng khó đối với chuyển gen động vật. Mỗi động vật có bộ gen riêng. Công nghệ chuyển gen là thay đổi bộ gen nhằm sửa chữa gen hỏng hoặc tạo ra động vật mang bộ gen mong muốn. Để đi đến thành công, Phòng thí nghiệm bắt đầu thực hiện nghiên cứu này từ trước đó 3 năm. Họ chọn gen phát sáng của sứa để chuyển vào cho cá vì đây là gen có tính đặc thù, có thể thấy rõ bằng mắt thường là gen đã chuyển được hay chưa mà không cần qua bước kiểm tra phức tạp. Ngoài ra, gen phát sáng còn được xem là gen “thông báo” (reporter gene), nếu đưa gen này vào được thì khi chuyển gen khác, có thể dùng nó để thông báo kết quả chuyển các gen kèm theo.

    Đầu tiên, nhóm nghiên cứu tách lấy gen phát sáng GFP (Green Fluorescent Protein) từ con sứa, rồi thao tác gen để có được đầu này đầu kia nhằm gắn plasmid (chất gắn gen) vào đó. Tiếp theo, tìm cách đưa đoạn gen trên vào tế bào trứng đã thụ tinh của cá. Sau đó gây sốc để mở toang bộ gen tế bào này; làm như vậy để khi tế bào gắn lại bộ gen, nó sẽ gắn “nhầm” đoạn gen phát sáng của sứa mà mình mong muốn. Tất cả được thực hiện với kính hiển vi vi thao tác, trong những điều kiện khắt khe về độ thẩm thấu, ánh sáng, nhiệt độ, điều kiện vô trùng… Khi trứng nở, cá con phát sáng. Thử nghiệm trên nhiều loại cá, nhóm nghiên cứu thành công với cá ngựa vằn (tên thông thường là Zebra fish, tên khoa học là Danio rerio). Các nhà khoa học đã canh suốt mấy đêm liền trước khi cá nở. Vào lúc 6 giờ 45 phút sáng 21/12/2007, có 12 trứng nở, tất cả mọi người hết sức mừng rỡ khi nhìn thấy rõ ràng qua kính hiển vi huỳnh quang hàng loạt đốm sáng xanh rất đẹp trên những con cá chuyển gen ra đời đầu tiên. Sau đó tất cả những trứng đã nở, con nào cũng phát sáng, có nghĩa là hội nhập gen đối với con sống đạt 100%.

    Nhận thấy đây là một công nghệ quan trọng, ĐHQG-HCM đã mạnh dạn đầu tư nguồn kinh phí ban đầu lên đến 40 tỷ đồng để thành lập Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc năm 2007. Đến nay, những nhà nghiên cứu của Phòng đã cho thấy sự đầu tư ấy không hề phí phạm, họ đã thực hiện những công trình nghiên cứu chuẩn, sâu, phát triển công nghệ ứng dụng tế bào gốc trong y học, dược học, mỹ phẩm, nông nghiệp… Phòng thí nghiệm hiện đang đẩy mạnh nghiên cứu ung thư, là hướng nghiên cứu chủ đạo, đồng thời nghiên cứu điều trị các bệnh khác như tiểu đường, thiếu máu tim cục bộ, thực hiện tái tạo giác mạc mắt, thụ tinh nhân tạo trên người, tạo vật liệu trị phỏng…

    Đầu năm 2014, được sự hỗ trợ của NXB Springer, Phòng thí nghiệm đã phát hành tạp chí bằng tiếng Anh, với tên “Biomedical Research and Therapy” (ISSN: 2198 – 4093) với hình thức Open Access, mỗi tháng một số. Phòng thí nghiệm tiếp tục phát hành tạp chí chuyên đề về tế bào gốc với tên “Progress in Stem Cell” (ISSN 2199 – 4633) cũng với hình thức Open Access, 3 tháng 1 số. Đến nay, Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc đã công bố hơn 50 công trình trên các tạp chí, sách quốc tế; đã nộp đăng ký 5 sáng chế, giải pháp hữu ích.

    Những người làm nên kỳ tích

    Tiếp cận và chinh phục chân trời khoa học mới này là một tập thể nghiên cứu còn rất trẻ làm việc dưới hướng dẫn của ThS. Phan Kim Ngọc. Suốt gần 20 năm qua, ông hiếm có một ngày nghỉ ngơi, hết giờ lên lớp lại “giam mình” trong phòng thí nghiệm từ sáng sớm đến tối khuya. Những căn bệnh từ thời chiến khiến cơ thể suy nhược nặng vẫn không làm mòn đi ý chí của nhà khoa học đã từng là chiến sĩ chiến đấu trên khắp các chiến trường. Bước vào lĩnh vực công nghệ cao là thử thách rất lớn đối với một đất nước chỉ mới thoát khỏi chiến tranh chưa lâu, những thành công của nhà khoa học trở về từ chiến trường cùng cộng sự của ông cho chúng ta niềm tin rằng đi sau chưa hẳn đã muộn.

    “Trong nghiên cứu khoa học, hãy tin vào thế hệ trẻ. Họ có thể làm được điều mà thế hệ đi trước không làm được. Điều đó có nghĩa là người thầy cần có trách nhiệm và tạo điều kiện cho các bạn làm việc”, ThS. Phan Kim Ngọc luôn tin tưởng những cộng sự trẻ của mình như thế, và họ đã cùng ông khẳng định thêm uy tín của Phòng thí nghiệm.

    Năm 2007, đề tài tái tạo giác mạc mắt từ tế bào gốc do Phòng thí nghiệm kết hợp với Trường ĐH y Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện mắt TP.HCM thực hiện được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học công nghệ quốc gia. Năm 2008, đề tài tạo tinh trùng chuột từ tế bào mầm sinh dục tiếp tục được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học công nghệ quốc gia. Năm 2009, Phòng thí nghiệm đoạt Giải thưởng sáng tạo khoa học kỹ thuật TP.HCM với đề tài tạo bò sữa từ tế bào trứng đông lạnh.

    Việt Nam chỉ mới đặt chân lên xa lộ tế bào gốc chưa lâu, điều kiện nhân lực và tài lực còn kém xa các nước phát triển, nhưng các nhà khoa học trong nước đã gặt hái được những thành tựu không nhỏ trong điều kiện nghiên cứu còn giới hạn.

    Như Quỳnh
    http://www.khoahocphothong.com.vn/newspaper/detail/40722/40-nam-khoa-hoc—cong-nghe-tp-.hcm:-cong-nghe-te-bao-goc:-giac-mo-va-hien-thuc.html