Category: Tin Tế bào gốc thế giới

  • TÌM RA GEN TRONG TẾ BÀO GỐC ĐIỀU KHIỂN VIỆC TÁI TẠO CƠ XƯƠNG

    Từ lâu, gen Prox1 được biết là giữ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thai nhi. Các nhà nghiên cứu Phần Lan đã phát hiện ra rằng Prox1 cũng rất cần thiết cho biệt hóa tế bào gốc cơ xương.

    Cơ xương không chỉ quan trọng trong sự vận động mà còn quan trọng đối với sự điều chỉnh các chuyển hoá trong toàn bộ cơ thể. Cơ có khả năng tái sinh đáng kể sau khi chấn thương và thích ứng trong phản ứng tập luyện.

    Gen Prox1 có vai trò quan trọng trong sự phát triển ở gan của thai nhi, mạch bạch huyết và thủy tinh thể ở mắt. Tuy nhiên, gen này cũng có khuyết điểm, Nó đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của ung thư đại trực tràng (Cell Reports 2014).

    Các nhà nghiên cứu từ Viện Wihuri và Đại học Helsinki, Phần Lan, đã phát hiện ra các tế bào gốc cơ xương là tế bào vệ tinh biểu hiện gen Prox1. Các kết quả mới đáng ngạc nhiên của nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Communications, cho thấy rằng các tế bào này phân chia thành các sợi cơ khi Prox1 hoạt động.

    Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng Prox1 cũng được biểu hiện trong nhóm cơ co rút chậm ở người trưởng thành, có khả năng chịu đựng tốt và hoạt động trao đổi chất cao. Khoảng một nửa sợi cơ xương ở người lớn là sợi cơ co rút chậm.

    Tác giả chính- Riikka Kivelä nói “Chuyển gen Prox1 vào tế bào cơ co rút nhanh làm tế bào này chuyển thành cơ co rút chậm ở chuột, Vì Prox1 ức chế sự hoạt động các gen ở sợi cơ co rút nhanh,”

    Kivelä nói thêm “Những phát hiện mới của chúng tôi về vai trò thiết yếu của Prox1 trong sự biệt hóa tế bào vệ tinh và duy trì cơ co rút chậm cung cấp phương pháp mới quan trọng cho các nghiên cứu về cơ và các bệnh chuyển hóa, chẳng hạn như bệnh tiểu đường type 2. Ở người, Prox1 là gen đa hình có liên quan đến tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 “

     lvtrinh 41

    Prox1 cần thiết cho sự biệt hóa của tế bào gốc cơ xương gọi là tế bào vệ tinh. Trong quá trình biệt hóa tế bào vệ tinh hình thành ống cơ đa nhân dài, nếu thiếu gen Prox1 thì chúng sẽ không biệt hóa được. Trong hình, protein myosin trong ống cơ biệt hóa được nhuộm màu xanh lá.

    LÊ VĂN TRÌNH – LÊ THỊ THU THÚY dịch

  • GIẢI NOBEL Y HỌC NĂM 2016

    ntkoanh 11

    Hình cơ chế của sự tự thực bào

    Ngày 03/10/2016, nhà Sinh học Yoshinori Ohsumi, thuộc Viện Kĩ thuật Tokyo (Tokyo Institute of Technology), đã thắng giải Nobel Y học cho nghiên cứu về cơ chế tự thực bào (autophagy) của tế bào, cơ chế giúp tế bào tái chế một phần vật chất của nó.

    Các nhà khoa học đã bắt đầu nhận thức cơ chế tự thực bào từ những năm 1960 nhưng hiểu biết rất ít về nó. Đến năm 1990, thí nghiệm tiên phong của Ohsumi với nấm men của bánh mì đã giúp sáng tỏ hơn về cơ chế hoạt động của quá trình tự thực bào.

    Điều này quan trọng vì quá trình tự thực bào có thể ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn nội bào và việc làm gián đoạn quá trình tự phân bào có liên quan đến các bệnh Parkinson, đái tháo đường tuýp 2 và một số rối loạn khác đặc biệt ảnh hưởng đến người già.

    Vậy tự thực bào (autophagy) có nghĩa là gì?

    Thuật ngữ “tự thực bào” (autophagy) có thể dịch ra là “tự ăn” (self eating), lần đầu tiên được đưa ra bởi các nhà khoa học nghiên cứu biểu hiện của tế bào trong những năm 1960 (nhà khoa học Laureate Christian de Duve, 1963).

    Tại thời điểm đó, các nhà nghiên cứu thấy rằng một tế bào có thể phá hủy một phần của nó bằng cách vận chuyển vào một túi khác gọi là các lysosome để phân rã từ từ.

    Nhưng Juleen Zierath thành viên của Hội đồng Nobel giải thích, Ohsumi cho thấy lysosome không phải là một túi chứa chất thải mà đó là một nhà máy tái chế. Trong những năm 1990, thí nghiệm của Ohsumi đã sử dụng nấm men bánh mì để xác định các gen cần thiết cho quá trình tự thực bào.

    Quỹ Nobel đã đưa ra một tuyên bố “Sau đó, ông ấy đã làm sáng tỏ cơ chế cơ bản của quá trình tự thực bào trong nấm men và cho thấy sự tương đồng trong cơ chế tinh vi được sử dụng trong các tế bào”.

    Tóm lại, quá trình tự thực bào giúp kiểm soát các chức năng sinh lý quan trọng trong đó các thành phần của tế bào cần phải được phân hủy và tái chế. Quá trình tự thực bào có thể cung cấp nguồn nhiên liệu một cách nhanh chóng cho việc cung cấp năng lượng và xây dựng, làm mới các thành phần tế bào. Sau khi bị xâm nhiễm, quá trình tự thực bào có loại bỏ các tác nhân vi khuẩn và virus xâm nhiễm trong nội bào. Việc làm gián đoạn quá trình tự thực bào có liên quan đến bệnh Parkinson, đái tháo đường type 2 và các rối loạn khác thường xuất hiện ở người già. Quá trình đột biến trong các gen tự thực bào có thể thể là nguyên nhân gây ra các bệnh di truyền và các rối loạn trong cơ chế tự thực bào cũng có liên quan đến ung thư. Các nghiên cứu mở rộng hiện nay đang cố gắng phát triển các loại thuốc có thể tác động trúng đích đến sự tự thực bào trong một số bệnh khác nhau.

    Theo CNN

    Kiều Oanh

  • LOÀI ĐỘNG VẬT KHÔNG CÓ NHIÊM SẮC THỂ Y Ở CON ĐỰC

    ntkoanh 12

    Hình: Vị trí trên nhiễm sắc thể của gen liên kết giới tính AMH (mũi tên màu trắng) trong con đực loài T.osimensis. Các nhiễm sắc thể được nhuộm kép với các chất huỳnh quang khác nhau (đỏ và xanh) để lập bản đồ gen chính xác.

    Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Hokkaido đã tiết lộ rằng các gen chính quy định giới tính tiếp tục hoạt động trong một loài động vật có vú mà thiếu nhiễm sắc thể Y, điều này đưa chúng ta tiến thêm một bước trong sự hiểu biết về khác biệt giới tính.

    Trong hầu hết các động vật có vú có nhau thai, nhiễm sắc thể Y cảm ứng sự biệt hóa tạo thành con đực trong quá trình phát triển, trong khi phôi không có nhiễm sắc thể Y sẽ tạo thành con cái. Gen quyết định giới tính SRY hiện diện trên nhiễm sắc thể Y và cảm ứng những gen điều hòa khác giúp ức chế sự biệt hóa giới tính của con cái. Tuy nhiên, loài chuột gai Tokunoshima (Tokudaia osimensis) là một ngoại lệ vì nó thiếu một nhiễm sắc thể Y (2n = 45) và do đó không có gen SRY, điều này đặt ra một câu hỏi là tại sao sự biệt hóa giới tính đực vẫn xảy ra.

    Tomofumi Otake và Asako Kuroiwa của Đại học Hokkaido, Nhật Bản đã thực hiện việc xây dựng bản đồ gen để xác định vị trí nhiễm sắc thể của gen liên quan đến giới tính trong bộ gen của loài T.osimensis. Sau đó, họ so sánh trình tự nucleotide và amino acid của loài này với những loài chuột nhắt và chuột rat khác. Ngoài ra, bằng cách sử dụng các tế bào nuôi cấy, họ cũng kiểm tra được các gen liên quan đến giới tính được điều hòa như thế nào.

    Gen SRY đã được nghiên cứu kĩ trong các nghiên cứu trước đây và được biết là có khả năng mở các gen điều hòa như Sox9 và AMH giữ vai trong quan trọng trong sự biệt hóa giới tính đực. Kết quả của nhóm cho rằng mặc dù trong loài T.osimensis không có gen SRY nhưng các gen điều hòa bình thường vẫn hiện diện và hoạt động như trong các động vật có vú có nhau thai khác.

    Giáo sư Kuroiwa cho rằng có một gen nào đó chưa biết có tác dụng thay thế cho gen SRY trong loài T.osimensis. Nhiễm sắc thể Y của động vật có vú đã được thu hẹp trong quá trình tiến hóa bằng cách giảm số lượng gen của nó và vài nhà khoa học nghĩ rằng nó sẽ hoàn toàn biến mất tại một thời điểm nào đó. Hy vọng nghiên cứu này sẽ giúp ích trong việc hiểu biết về cơ chế quyết định giới tính không phụ thuộc vào nhiễm sắc thể Y và khía cạnh tiến hóa của nó.

    Theo Science Daily

    Kiều Oanh

  • LOẠI BỎ HOÀN TOÀN HIV TRONG MÁU BỆNH NHÂN

    LOẠI BỎ HOÀN TOÀN HIV TRONG MÁU BỆNH NHÂN

    Đây có thể là phương pháp mới trong điều trị HIV.

    50 bệnh nhân đầu tiên hoàn thành thử nghiệm lâm sàng đã loại bỏ được hoàn toàn virus HIV trong máu.

    Đây là tín hiệu đầy hứa hẹn, nhưng vẫn còn quá sớm để nói rằng phương pháp này cứu sống được bệnh nhân: các bác sĩ cảnh báo HIV có thể tái xuất, và sự xuất hiện của thuốc kháng HIV trong cơ thể bệnh nhân làm chúng ta không chắc rằng việc không phát hiện ra dấu hiệu của HIV là tốt.

    Mark Samueis, Giám đốc điều hành National Institute for Health Research Office for Clinical Research Infrastructure cho biết “Đây là một trong những nỗ lực đầu tiên đạt được việc loại bỏ hoàn toàn HIV”, “Chúng tôi đang nghiên cứu khả năng đích thực của nó trong việc điều trị HIV. Đây là một thách thức lớn và vẫn còn trong giai đoạn đầu nhưng đã đạt được những bước tiến lớn.”

    Từ lâu, HIV rất khó điều trị vì nó trú ẩn trong những tế bào mà cơ thể không phát hiện và bắt giữ được.

    Phương pháp mới này lần đầu tiên loại bỏ được HIV trong mọi cơ quan của cơ thể, và nó hoạt động bằng cách kết hợp thuốc tái hoạt hóa các tế bào nhiễm HIV với vaccine được thiết kế để giúp hệ miễn dịch nhận diện và phá hủy chúng.

    Đầu tiên, vaccine được tiêm vào bệnh nhân, thúc đẩy khả năng nhận diện và tấn công tế bào nhiễm HIV của hệ miễn dịch. Sau đó, một loại thuốc được gọi là Virinostat được sử dụng để kích hoạt những tế bào nhiễm HIV biểu hiện ra ngoài và vì vậy mà hệ miễn dịch có thể phát hiện được chúng.

    Điều đó có nghĩa là các tế bào bị bệnh đột nhiên sẽ lộ diện và hệ miễn dịch mới được kích hoạt của cơ thể sẽ tiêu diệt chúng.

    Các thuốc kháng retrovirus ngày nay có hiệu quả trong việc ngăn chặn HIV sản sinh nhưng không có khả năng tiêu diệt hết nó.

    Người đàn ông đầu tiên hoàn thành thử nghiệm này cho thấy không còn virus trong máu. Trong vài tháng, khi không sử dụng thuốc kháng retrovirus ở những người được điều trị này, chúng ta nên theo dõi để xem HIV có thực sự biến mất.

    Nếu ông ta không có dấu hiệu của HIV nữa, thì ông ấy là người thứ hai được điều trị khỏi bệnh hoàn toàn, trong tổng số 37 triệu người mắc căn bệnh này. Người đầu tiên được trị khỏi bệnh này đó là Timothy Ray Brown, bằng phương pháp ghép tủy xương từ người cho kháng với HIV. Nhưng liệu pháp này quá hiếm người cho, rất tốn kém và nguy hiểm nếu sử dụng rộng rãi, cho nên thử nghiệm mới này có ý nghĩa lớn.

    Tác giả nói “Đây là một thành quả lớn nếu sau vài năm nữa có nhiều người được cứu khỏi căn bệnh này. Có nghĩa là tôi đã làm được một điều không tưởng”.

    lvtrinh 39

    Hình minh họa: Thử nghiệm RIVER trong điều trị HIV có kết quả khả quan trên 50 người bệnh, thử nghiệm này sẽ có kết quả cuối cùng vào năm 2018. Trong thử nghiệm này, các bệnh nhân sẽ được sử dụng các thuốc kháng retrovirus (ART) để ngăn sự tăng sinh của HIV (bước 1), tiếp theo bệnh nhân được tiêm vaccine để kích hoạt hệ miễn dịch (bước 2) và sử dụng Vorinostat để làm các tế bào bị chứa virus HIV biểu hiện ra bên ngoài (bước ba). Lúc này, hệ miễn dịch vừa được kích hoạt bằng vaccine, các tế bào nhiễm HIV vừa “lộ diện” nên các tế bào miễn dịch có thể phát hiện và loại bỏ các tế bào nhiễm một cách hiệu quả (bước 4). (nguồn: ox.ac.uk)

    Tham khảo.

    Targeting HIV ‘reservoir’ could be first step to understanding how to cure the disease, ox.ac.uk
    1 DEC 2015. (http://www.ox.ac.uk/news/2015-12-01-targeting-hiv-%E2%80%98reservoir%E2%80%99-could-be-first-step-understanding-how-cure-disease)

    DAVID NIELD, A new treatment appears to have erased HIV from a patient’s blood, sciencealert.com 3 OCT 2016 (http://www.sciencealert.com/a-new-hiv-treatment-could-have-cured-a-patient-in-britain)

    Lê văn Trình dịch và tổng hợp

    Email: lvtrinh@hcmus.edu.vn

     

  • TẾ BÀO GỐC NHAU THAI NGĂN NGỪA CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

    Các kết quả của nghiên cứu cho thấy sự hình thành mạch máu mới, cải thiện lưu lượng máu, giảm nguy cơ hoại tử chi.

    Putnam Valley, NY. (Ngày 30 tháng 8 2016) – Trong một nỗ lực để xác định xem liệu pháp tế bào gốc có thể ngăn ngừa hoặc cải thiện một tình trạng gọi là “bàn chân đái tháo đường” do lưu lượng máu kém ở những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, một nhóm các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đã phát hiện ra rằng cấy tế bào gốc trung mô (MSC) có nguồn gốc từ nhau thai người vào mô hình chuột tiểu đường có thể ảnh hưởng đến sự phát triển mạch máu, có khả năng cải thiện lưu lượng máu và ngăn ngừa thiếu máu cục bộ chi (CLI), một hậu quả dẫn tới “bàn chân đái tháo đường” và thường phải cắt bỏ chi.

    Nghiên cứu này sẽ được công bố trên tạp chí Cell Transplantation.

    “CLI là một giai đoạn tiến triển của bệnh về động mạch ngoại vi đặc trưng bởi sự tắc nghẽn động mạch và giảm đáng kể lưu lượng máu đến các chi. CLI thường đi kèm với tỷ lệ tử vong và mắc bệnh cao, dẫn đến nguy cơ cao phải cắt bỏ các bộ phần trên cơ thể”, đồng tác giả nghiên cứu TS Zhong Chao Han của Viện Beijing Institute of Stem Cells, Health and Biotech cho biết. “Các tế bào gốc trung mô (MSC) là ứng cử viên lý tưởng cho việc cấy ghép bởi vì chúng có cả đặc tính tạo mạch máu (tiềm năng để hình thành các mạch máu mới), điều hòa miễn dịch và có khả năng biệt hóa thành ba dòng tế bào khác nhau. Các lợi ích của tế bào MSC từ nhau thai chưa được hiểu rõ, vì vậy chúng tôi đã tìm cách để nghiên cứu về hiệu quả của việc điều trị thông thường kết hợp và liệu pháp tế bào trong bệnh tiểu đường liên quan đến CLI.”

    Theo các nhà nghiên cứu, nhau thai người được thu nhận từ thai nhi đã đủ tháng và sanh mổ từ những người mẹ đồng ý cho mẫu. Việc sử dụng các tế bào người đã được sự chấp thuận của Institutional Biomedical Research Ethics Committee of the Chinese Academy of Medical Science và Đại học Y Union Bắc Kinh.

    Sau khi tiêm vào chuột mô hình CLI, các tế bào được theo dõi và định lượng tại các thời điểm khác nhau. Các nhà nghiên cứu thấy rằng số lượng tế bào gốc giảm đáng kể theo thời gian, nhưng có một lượng tế bào biệt hóa thành các tế bào mạch máu. Các tế bào tiêm vào cũng tiết ra các cytokine, đó là các protein nhỏ được tiết ra từ các tế bào, có tác dụng trên sự tương tác và tín hiệu giữa các tế bào.

    Các nhà nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi tin rằng các cytokine được tiết ra bởi MSC thu hút các tế bào nội mô, một loại tế bào tạo nên các mô lót bề mặt bên trong của mạch máu, các tế bào này tham gia xây dựng các mô mạch máu mới và cũng ức chế viêm.”

    Các nhà nghiên cứu kết luận rằng dữ liệu thực nghiệm của họ có nghĩa rằng MSC làm tăng sự phục hồi thiếu máu cục bộ ở chuột mắc bệnh tiểu đường qua việc biệt hóa tế bào trực tiếp và cơ chế cận tiết (qua trung gian protein), mặc dù vậy, hai cơ chế này tồn tại cùng một lúc. Các nhà nghiên cứu cho biết thêm: “Các cơ chế cận tiết có thể còn quan trọng hơn sự biệt hóa tế bào trực tiếp”.

    Họ còn cho biết: “Cho đến nay, điều trị bằng MSC là một phương pháp đơn giản, an toàn và hiệu quả đối với bệnh tiểu đường và các biến chứng của nó, các nghiên cứu của chúng tôi đặt nền móng cho sự chuyển đổi từ nghiên cứu đến lâm sàng”.

    Tiến sĩ Maria Carolina Oliveira Rodrigues của Trường Y Ribeirão Preto – Đại học São Paulo, Brazil và là biên tập viên của tờ Cell Transplantation: “Bệnh tiểu đường đang ngày càng trở nên phổ biến khắp thế giới và liệu pháp tế bào gốc có thể là một phương pháp tiếp cận không thể thiếu đối với các biến chứng về mạch máu nghiêm trọng. Các nghiên cứu trong tương lai nên hướng đến tìm hiểu chi tiết trong phương pháp cấy ghép MSC dựa trên những phát hiện từ trước và xác nhận tính hiệu quả của MSC từ nhau thai đối với bệnh CLI.”

    lvtrinh 38

    LÊ VĂN TRÌNH – LÊ PHẠM TIẾN TRIỀU dịch

    Theo eurekalert.org

     

  • MIỄN DỊCH KHÁNG UNG THƯ VỚI CHIẾN LƯỢC MỚI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BUỒNG TRỨNG

    Một số ít điều trị hiệu quả ung thư buồng trứng đã được phê duyệt, chết nhiều nhất trong tất cả các loại ung thư trong hệ thống sinh sản ở nữ giới. Bây giờ, nghiên cứu mới từ Viện Wistar chứng minh một loại thuốc sẵn sàng trong thử nghiệm lâm sàng có thể được sử dụng để đẩy mạnh miễn dịch kháng khối u và giúp tế bào nhắm trực tiếp đến tế bào ung thư trong khi giảm thiểu tối đa tác dụng phụ. Kết quả được công bố trên tạp chí Cell Reports.

    lmphong 4

    Thuốc ức chế BET làm giảm biểu hiện PD-L1 trên tế bào

    Mối quan tâm đặc biệt giữa protein chương trình chết tế bào (PD-1) và phối tử của nó (PD-L1) bởi vì sự tương tác giữa hai phân tử này ức chế quan trọng đến hoạt tính tế bào T. PD-L1 được biểu hiện trên bề mặt của cả tế bào ung thư và tế bào miễn dịch. Thuốc có nguồn gốc kháng thể ngăn đặc hiệu tương tác này cho thấy kết quả hứa hẹn, dù cho bệnh nhân có gặp tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch.

    “Chúng tôi muốn khai thác liệu pháp kháng PD-L1 đặc hiệu cho ung thư buồng trứng, nhưng chúng tôi cũng muốn xác định một loại thuốc khác mà không gây tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch kháng PD-L1 có thể được sử dụng để nhắm đến con đường thúc đẩy ung thư”, Giáo sư Rugang Zhang nói và là nhà lãnh đạo đồng chương trình Điều hòa và Biểu hiện Gen tại Viện Wistar và là tác giả chính của nghiên cứu.

    Zhang và các cộng sự đã xác định để chọn lọc các phân tử nhỏ ức chế có thể được sử dụng như là một lựa chọn điều trị. Các phân tử nhỏ ức chế phù hợp hơn cho điều trị ung thư bởi vì nó ngăn chặn phát triển ung thư bởi các tế bào mục tiêu có các protein hoặc các đột biến liên quan đến ung thư trong khi vẫn duy trì ở tế bào khỏe mạnh bình thường.

    Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một loại thuốc được biết như ức chế bromodomain và extraterminal domain (BET) đặc biệt ức chế hiệu quả hoạt tính PD-L1 khi được nghiên cứu trên dòng tế bào biểu mô ung thư buồng trứng. Nhiều chất ức chế BET trong các giai đoạn thử nghiệm lâm sàng khác nhau cho nhiều loại ung thư khác nhau. Chúng có khả năng ức chế phản ứng viêm, mà không ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch kháng khối u. Trong nghiên cứu này, chúng tôi thử nghiệm một chất ức chế BET gọi là JQ1.

    Mặc dù thuốc ức chế BET không nhắm đặc hiệu đến PD-L1, những nhà nghiên cứu có khả năng xác định vì sao thuốc này có hiệu quả. Họ thấy rằng bromodomain-containing protein 4 (BRD4), một trong những thành viên của họ BET bị ức chế bởi thuốc này, có vai trò quan trọng điều hòa sự biểu hiện PD-L1. Gen BRD4 thường được khếch đại trong ung thư buồng trứng và có thể được đánh giá như một dấu ấn sinh học để xác định bệnh nhân ung thư buồng trứng có lợi nhiều nhất trong điều trị với thuốc ức chế BET.

    “Mục tiêu PD-L1 cho thấy một chiến lược hiệu quả chiến đấu với nhiều loại ung thư ở người”, Tiến sĩ Hengrui Zhu nói, một postdoc trong phòng thí nghiệm của Zhang và là tác giả đầu tiên của công trình “Với chất ức chế BET, chúng tôi tin đã tìm được một sức mạnh mới cho chiến lược điều trị bệnh ung thư buồng trứng”.

    Lê Minh Phong dịch

    Theo ScienceDaily

  • PHÁT HIỆN MỚI VỀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

    Một nghiên cứu gần đây đã đưa ra bằng chứng cho thấy khối u não sử dụng chất béo làm nguồn năng lượng, điều này đã đặt ra nghi ngờ cho sự phỏng đoán hơn 10 năm qua rằng đường là nguồn năng lượng chính của khối u.

    Nếu được xác nhận, điều này có thể thay đổi nền tảng về phương pháp chữa trị ung thư trong tương lai, bởi vì cho tới hiện nay, các nhà khoa học hiện vẫn đang tập trung mọi nỗ lực trong việc làm thiếu hụt nguồn cung cấp đường đối với tế bào ung thư.

    Elizabeth Stoll, nhà nghiên cứu chuyên về thần kinh của trường đại học Newcastle, UK, người dẫn đầu trong nghiên cứu trên, đã phát biểu trên tờ The Independent rằng: “60 năm qua, chúng ta đã cho rằng tất cả khối u đều lấy nguồn năng lượng từ đường, và bộ não cũng được cung cấp năng lượng bởi đường. Do đó, bạn chắc chắn sẽ nghĩ ra khối u não cũng sẽ như thế”.

    U thần kinh đệm là một kiểu hình của khối u não phát triển từ tế bào thần kinh đệm với chức năng hỗ trợ các neuron và giúp duy trì hàng rào máu – não. Các tế bào này chiếm đến 90% trên tổng số các tế bào não, và cho đến hiện nay vẫn còn nhiều điều chưa biết về chúng.

    Khối u thần kinh đệm có 3 loại: astrocytoma, oligodendroglioma, và glioblastoma. Glioblastoma là loại thường gặp nhất và phát triển nhanh nhất. Tại Mỹ khoảng 30 % bệnh nhân chỉ sống được 2 năm sau khi phát hiện bệnh.

    Stoll và cộng sự đã tìm ra một hướng mới trong việc chữa trị – tạo nên một sự khác biệt lớn. Họ phát hiện khi những tế bào ung thư bị ức chế về khả năng sử dụng nguồn năng lượng từ chất béo, tỉ lệ phát triển của chúng giảm một cách đáng kể, tương ứng với tăng tỉ lệ sống.

    Nhóm đã tiến hành thí nghiệm trên mô ung thư của người hiến tặng bị u thần kinh đệm đã trải qua phẫu thuật, và mô hình chuột mắc bệnh được tiêm chất ức chế sự oxi hóa của chất béo Etomoxir.

    Stoll nói: “Chúng tôi đã thử nghiệm etomoxir trên mô hình động vật, và kết quả cho thấy thuốc này đã làm chậm sự phát triển của khối u thần kinh đệm, tăng thời gian sống trung bình thêm 17%. Những kết quả này cho thấy đây là loại thuốc hoàn toàn mới có thể hỗ trợ điều trị bệnh trên lâm sàng trong tương lai”.

    Khái niệm ung thư phát triển dựa trên nguồn năng lượng từ glucose – một loại đường đơn mà các tế bào khỏe mạnh sử dụng như nguồn năng lượng, đã tồn tại từ những năm 1950, khi nhà khoa học người Đức Otto Warburg, người được trao giải Nobel, đã quan sát và thấy rằng những khối u phát triển chủ yếu bởi chuyển hóa glucose.

    Quá trình này gọi là “tác động Warburg” được cho là diễn ra trong hơn 80% tế bào ung thư.

    Sam Apple đã phát biểu trên tờ báo The New York Times, “Cơ bản đối với hầu hết các ung thư, cơ chế của phương pháp chụp cắt lớp positron, một kĩ thuật quan trọng trong việc xác nhận và chuẩn đoán ung thư, khá đơn giản, đó là phát hiện những điểm trong cơ thể có tế bào sử dụng nguồn glucose mạnh hơn bình thường”.

    Với việc nhiều tế bào ung thư phụ thuộc vào glucose cho sự phát triển và những tế bào não khỏe mạnh cũng dựa vào đường để duy trì chức năng, nên các nhà khoa học đã cho rằng tế bào ung thư trong não cũng tuân theo quy luật đó.

    Quan điểm này cũng được các nhà khoa học sử dụng để các nhà khoa học thao tác với các mẫu mô trong phòng thí nghiệm.

    Stoll giải thích trên tờ The Independent, thông thường các nhà khoa học thu nhận tế bào ung thư não từ bệnh nhân và nuôi trong môi trường máu. Nhưng bởi việc nuôi những tế bào này trong môi trường có lượng đường nhiều hơn chất béo dường như đã làm biến đổi chúng, cảm ứng sự chuyển đổi sử dụng nguồn năng lượng từ đường do cạn kiệt nguồn chất béo.

    Nhóm của Stoll đã tránh sự thay đổi này bằng việc nuôi tế bào ung thư của chuột và người trong điều kiện không huyết thanh.

    Stoll cũng cho biết, “Việc cho tế bào v&ag
    rave;o trong huyết thanh chỉ nhằm làm tế bào phát triển trong nuôi cấy. Nếu bạn thu tế khối u não ác tính và cho tiếp xúc với huyết thanh, huyết thanh này sẽ biến đổi chúng. Sau đó, chúng có thể chuyển đổi khá dễ dàng.”

    Chúng ta nên làm sáng tỏ rằng phát hiện của Stoll hiện tại chỉ mới thử nghiệm trên mô hình động vật và với tế bào khối u não được thu nhận từ người. Do đó, cho đến khi nhóm nghiên cứu chứng minh được những ảnh hưởng tương tự của thuốc etomoxir trên người, chúng ta không thể đưa ra bất cứ kết luận nào.

    Nhà nghiên cứu cũng cho biết họ vẫn chưa đưa ra được bất cứ giải định nào về quá trình chế độ ăn có chất béo hay đường ở giai đoạn này.

    Tuy nhiên bất cứ hướng mới nào trong nghiên cứu ung thư đều có thể mang đến hi vọng.

    Kết quả đã được công bố trên tạp chí Neuro-Oncology.

    lvtrinh 37

    Hình lát cắt u thần kinh đệm

    LÊ VĂN TRÌNH – VÕ HỒNG NGỌC dịch

    Theo: sciencealert.com

  • BỆNH NHÂN UNG THƯ LYMPHOMA GIAI ĐOẠN MUỘN THUYÊN GIẢM SAU KHI ĐIỀU TRỊ TẾ BÀO T


    Trong một công trình được công bố trên Science Translational Medicine, các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Hutchinson đã chia sẽ dữ liệu từ một nghiên cứu với bệnh nhân ung thư lymphoma non-Hodgkin giai đoạn muộn nhận điều trị JCAR014, một tế bào T với thụ thể kháng nguyên khảm (CAR-T), và liệu pháp hóa học. Tế bào CAR-T được làm từ tế bào miễn dịch của chính bệnh nhân được biến đổi gen để nhận diện và giết tế bào ung thư tốt hơn.

    lmphong 3

    Tiến sĩ Cameron Turtle, một trong những nhà lãnh đạo nghiên cứu.

    Công trình đã báo cáo kết quả của 32 bệnh nhân đầu tiên trong thử nghiệm liều lượng JCAR014 sau khi sử dụng liệu pháp hóa học loại bỏ hết các tế bào lympho để tạo một môi trường hỗ trợ phát triển tế bào CAR-T trong cơ thể bệnh nhân. Khám phá quan trọng trong nghiên cứu đã chứng minh sự quan trọng trong lựa chọn thuốc để loại bỏ hết tế bào lympho và hiệu quả của liều khác nhau tế bào CAR-T. 50% của 18 bệnh nhân được đánh giá là có hiệu quả sau khi nhận tế bào CAR-T và thuốc fludarabine và cyclophosphamide (Cy/Flu) có đáp ứng hoàn toàn, so với 8% tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn bệnh nhân nhận JCAR014 và cyclophosphamide không có fludarabine. Với một báo cáo trước đó, độc tính được quan sát trong một vài bệnh nhân trong nghiên cứu liều tiêm, những người nhân liều tế bào CAR-T cao nhất. Nghiên cứu tiếp tục với liều tế bào CAR-T trung bình.

    Trong các bệnh nhân nhận Cy/Flu và liều trung bình JCAR014, dữ liệu cho thấy một hiệu quả và đặc điểm tác dụng phụ hứa hẹn. Đặc biệt:

    • Tỉ lệ đáp ứng toàn bộ: 82% (9/11)
    • Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn: 64% (7/11)
    • Hội chứng giải phóng cytokine nghiêm trọng: 9% (1/11)
    • Gây độc thần kinh nghiêm trọng: 18% (2/11)

    Tiêu chuẩn của JCAR014 là sử dụng tỉ lệ 1:1 giữa tế bào CAR-T giúp đỡ (CD4+) và CAR-T giết (CD8+) để tiêu diệt tế bào khối u biểu hiện CD19, một phân tử được tìm thấy trên bề mặt của nhiều tế bào ung thư máu, bao gồm lymphoma và leukemia. Bằng cách kiểm soát hỗn hợp tế bào T mà các bệnh nhân phải nhận, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối liên hệ giữa liều tế bào và kết quả trên bệnh nhân đã bỏ qua trước đó. Dữ liệu cho thấy với tỉ lệ tế bào 1:1, hiệu quả điều trị tăng lên, trong khi độc tố tác dụng phụ giảm xuống tối thiểu.

    “Với thành phần điều trị xác định, chúng tôi có khả năng tạo ra nhiều dữ liệu hơn về hiệu quả của tế bào cả tác động có lợi chống lại ung thư và bất kì tác dụng phụ cho bệnh nhân”, Tiến sĩ Stan Riddell nói, một trong tác giả chính của công trình.

    “Nghiên cứu này cho thấy sự đúng đắn của liều tế bào CAR-T và sự loại bỏ tế bào lympho, chúng tôi có thể đạt được các tỉ lệ đáp ứng rất tốt cho bệnh nhân NHL, những người không có sự lựa chọn điều trị nào khác”, Tiến sĩ Cameron Turle nói, một nhà nghiên cứu liệu pháp miễn dịch tại Fred Hutch và là một người dẫn đầu nghiên cứu công trình.

    Nhờ việc hiểu rõ nghiên cứu JCAR014 là chìa khóa để phát triển JCAR017, một sản phẩm tương tự cho điều trị các loại ung thư máu dương tính với CD19. Giống như JCAR014, JCAR017 sử dụng tỉ lệ 1:1 tế bào CAR-T giúp đỡ và tiêu diệt, và công ty tin tưởng tiềm năng của nó để điều trị tốt nhất bệnh lymphoma non-Hodgkin, leukemia lymphocyte mãn tính, và bệnh leukemia cấp tính ở người lớn và trẻ nhỏ. JCAR017 hiện đang ở giai đoạn 1, nghiên cứu đa trung tâm.

    “Chúng tôi được khuyến khích bởi tính hiệu quả và thời gian đáp ứng mà chúng tôi đang thấy với thành phần xác định điều trị CAR-T ở bệnh nhân ung thư lymphoma và các bệnh ung thư ác tính tế bào B khác “, Mark J. Gilbert, Giám đốc Y khoa Juno cho biết.” Chúng tôi hy vọng rằng những hiểu biết từ JCAR014 sẽ làm cho nó có thể mang lại nhiều phương pháp điều trị cứu sống cho bệnh nhân nhiều hơn với bệnh ung thư máu. “

    Lê Minh Phong dịch

    Theo ScienceDaily

  • Tiêm tế bào gốc vào não giúp bệnh nhân đi lại sau đột quỵ – Kỳ 2

    Kỳ 2: Phương thức chữa trị là chìa khoá cho sự thành công

    Gần đây, những bệnh nhân phải phụ thuộc xe lăn do đột quỵ đã có thể đi lại sau khi được tiêm tế bào gốc vào não. Một số bệnh nhân đột quỵ khác cũng cho thấy sự cải thiện trong việc nói và cử động tay của họ.

    “Chúng tôi đã từng nghĩ rằng các mối liên kết giữa các tế bào não đã bị phá huỷ”, ông Gary Steinberg, nhà giải phẫu thần kinh tại Đại học Stanford nói, “Bây giờ, chúng tôi phải suy nghĩ lại về điều này, cá nhân tôi nghĩ rằng các mối liên kết này đã bị bất hoạt, và việc điều trị của chúng tôi giúp hoạt hoá lại các mối liên kết này.”

    tin Kh 13

    Kiểm tra cử động ở bệnh nhân đột quỵ

    Thông qua một lỗ khoan trên hộp sọ, Steinberg tiêm các tế bào vào vùng não điều khiển chuyển động cơ, nơi đã bị hư hại bởi cơn đột quỵ. Mỗi người tham gia thử nghiệm được nhận 2,5 hoặc 5 hoặc 10 triệu tế bào.

    Dung dịch được tiêm vào chứa các tế bào gốc trung mô được lấy từ tủy xương của hai người hiến tặng khỏe mạnh. SanBio đã thay đổi tính di truyền của tế bào để kích hoạt một gen được gọi là Notch1, gen này sẽ giúp kích hoạt các yếu tố kích thích phát triển não bộ ở trẻ sơ sinh. Thí nghiệm trên chuột cho thấy các tế bào gốc đã bị biến đổi sẽ biến mất trong vòng một tháng hoặc lâu hơn, nhưng trước đó, chúng sẽ tiết ra một số yếu tố tăng trưởng giúp xây dựng các cầu nối giữa các tế bào não. Bên cạnh đó, các tế bào gốc còn thúc đẩy sự hình thành mạch máu mới để nuôi dưỡng những mô não đang phát triển.

    Steinberg nói, “Các tế bào gốc tiết tất cả các loại yếu tố tăng trưởng, để sửa chữa cũng như thay đổi hệ thống miễn dịch, nhằm loại bỏ tình trạng viêm có thể làm cản trở việc sửa chữa.”

    Trong thử nghiệm của ReNeuron, bệnh nhân được nhận tế bào gốc thần kinh thu nhận từ ​​não thai bỏ, sau đó nuôi cấy trong phòng thí nghiệm để sản xuất số lượng lớn hơn. Julian Howell, Giám đốc y tế tại ReNeuron nói: “Cả hai công ty đang ở trong cùng một giai đoạn phát triển, và thật tốt khi nghe về những cải thiện lớn ở một số bệnh nhân. Các nghiên cứu có kiểm soát là hoàn toàn cần thiết để xác định rõ lợi ích cũng như nguy cơ của liệu pháp tế bào gốc cho bệnh đột quỵ.”

    Hiện nay, có khoảng 30 thử nghiệm tương tự đang được tiến hành. Những thử nghiệm này truyền tế bào gốc vào bệnh nhân đột quỵ bằng cách tiêm vào máu, nhưng không có phương pháp nào cho thấy kết quả đáng ghi nhận như hai thử nghiệm tiêm vào não bộ. Steinberg nói: “Chúng ta vẫn còn phải nghiên cứu nhiều hơn nữa, để tìm ra loại tế bào, lượng tế bào, cũng như phương pháp chuyển tế bào thích hợp”.

    Tham khảo chi tiết tại:

    Clinical Outcomes of Transplanted Modified Bone Marrow–Derived Mesenchymal Stem Cells in Stroke: A Phase 1/2a Study. Stroke.

    http://stroke.ahajournals.org/content/early/2016/06/02/STROKEAHA.116.012995.abstract

    Đặng Thanh Long

    Theo New Scientist

  • Tiêm tế bào gốc vào não giúp bệnh nhân đi lại sau đột quỵ – Kỳ 1

    Kỳ 1: Niềm hy vọng cho tất cả bệnh nhân

    Gần đây, những bệnh nhân phải phụ thuộc xe lăn do đột quỵ đã có thể đi lại sau khi được tiêm tế bào gốc vào não. Một số bệnh nhân đột quỵ khác cũng cho thấy sự cải thiện trong việc nói và cử động tay của họ.

    Đột quỵ hay còn gọi là tai biến mạch máu não, tăng xông, là một loại bệnh gây ra do tắc nghẽn mạch máu não hoặc xuất huyết não, làm cho một vùng não bị chết. Nguyên nhân bệnh thường diễn tiến âm thầm nhưng lại đột ngột gây ra bệnh, dẫn đến khó cứu chữa và để lại hậu quả nặng nề.

    tin Kh 12

    Có 2 nguyên nhân gây ra đột quỵ, dẫn đến chết 1 vùng não

    “Một người phụ nữ 71 tuổi chỉ có thể di chuyển ngón tay cái bên trái của mình vào lúc bắt đầu cuộc thử nghiệm”, ông Gary Steinberg, nhà giải phẫu thần kinh tại Đại học Stanford, người thực hiện quy trình thử nhiệm cho một số trong 18 bệnh nhân, nói. “Bây giờ bà ấy đã có thể đi lại và nâng cánh tay qua khỏi đầu.”

    Được thực hiện bởi công ty SanBio ở Mountain View, California, đây là lần thử nghiệm thứ hai để xác nhận việc tiêm tế bào gốc vào não của bệnh nhân có thể giúp xoá bỏ các hậu quả của đột quỵ. Trong lần thử nghiệm đầu tiên được thực hiện bởi công ty ReNeuron, Anh, bệnh nhân cũng cho thấy có sự giảm rõ rệt các hậu quả của bệnh đột quỵ sau một năm được tiêm tế bào gốc.

    Tất cả bệnh nhân trong đợt thử nghiệm mới nhất đều cho thấy sự cải thiện. Sử dụng thang điểm 100 để đánh giá độ di động với 100 điểm là hoàn toàn di động, liệu pháp mới giúp bệnh nhân tăng điểm rõ rệt, trung bình tăng 11,4 điểm, một con số được coi là có ý nghĩa lâm sàng cho bệnh nhân. “Những cải thiện đáng kể nhất nằm ở sức mạnh, sự phối hợp, khả năng đi lại, khả năng sử dụng bàn tay và khả năng giao tiếp, đặc biệt là ở những người không thể nói lưu loát do đột quỵ”, Steinberg nói.

    Trong cả hai đợt thử nghiệm, kết quả cải thiện khả năng di động của bệnh nhân đều không có sự khác biệt mặc dù bệnh nhân đã bị đột quỵ từ sáu tháng hoặc ba năm trước.

    Hiệp hội Đột quỵ Anh rất hoan nghênh kết quả này nhưng cũng khuyến cáo rằng các thử nghiệm khác vẫn rất cần thiết để cung cấp thêm bằng chứng về khả năng điều trị của liệu pháp này.

    Tham khảo chi tiết tại:

    Clinical Outcomes of Transplanted Modified Bone Marrow–Derived Mesenchymal Stem Cells in Stroke: A Phase 1/2a Study. Stroke.

    http://stroke.ahajournals.org/content/early/2016/06/02/STROKEAHA.116.012995.abstract

    Đặng Thanh Long

    Theo New Scientist