Category: Tin PTN Tế bào gốc

  • Tạo thành công mô buồng trứng trong phòng thí nghiệm

    Tạo thành công mô buồng trứng trong phòng thí nghiệm

    Một nghiên cứu đã cho thấy tiềm năng của buồng trứng được tạo trong phòng thí nghiệm sẽ cung cấp một lựa chọn tự nhiên hơn, thay thế liệu pháp hormon ở phụ nữ. Theo tạp chí Biomaterials, một nhóm nghiên cứu đến từ Viện Wake Forest Baptist Medical (Trung tâm Y học) báo cáo rằng, trong các phòng thí nghiệm, buồng trứng nhân tạo đã cho thấy sự duy trì tiết hormone giới tính estrogen và progesterone một cách đều đặn và mang hoạt tính bình thường như các loại hormone do cơ thể tự tiết. Mặc dù có rất nhiều loại thuốc bổ sung cho sự thiếu hụt hormone giới tính ở nữ, nhưng đa số chúng thường được khuyến cáo không nên sử dụng lâu dài vì có thể làm gia tăng nguy cơ bệnh tim và ung thư vú ở những người có nguy cơ cao như tiền sử bản thân hoặc gia đình đã từng mắc các loại bệnh trên.

    17-6

    “Mục tiêu của chúng tôi là phát triển một loại mô hoặc tế bào dựa trên liệu pháp hormone – bản chất của nó là buồng trứng được tạo ra trong phòng thí nghiệm có thể tiết các loại kích thích tố tự nhiên hơn so với các loại thuốc nhân tạo khác”, ông Emmanuel C. Opara, Tiến sĩ, Giáo sư y học tái sinh và là tác giả cho biết: “Ưu điểm của phương pháp này là khả năng tiết ra hormone một cách tự nhiên dựa trên nhu cầu của cơ thể, chứ bệnh nhân không cần phải uống một liều thuốc chính xác mỗi ngày như các liệu pháp trước đây.”

    Ngoài chức năng điều hòa sinh sản, buồng trứng còn có thể tiết ra một số nhân tố tích cực quan trọng đối với sự tạo thành và đảm bảo chức năng của xương, bên cạnh đó, nó còn có ảnh hưởng tốt với sức khỏe tim mạch. Buồng trứng có thể bị tổn hại, mất chức năng do các nguyên nhân như phẫu thuật, hóa trị và xạ trị vì một số loại ung thư cũng như thời kỳ mãn kinh. Khi các hormone không còn được tiết sẽ gây nên một số triệu chứng ở phụ nữ như nóng bức, khó chịu trong người, hay cáu gắt, khô âm đạo dẫn đến việc quan hệ vợ chồng gặp khó khăn, tăng nguy cơ loãng xương và bệnh tim.

    “Nghiên cứu của dự án này làm tăng hy vọng ở những phụ nữ bị chứng suy buồng trứng sớm hoặc ở phụ nữ vừa bắt đầu thời kỳ mãn kinh”, Tiến sĩ, Bác sĩ Tamer Yalcinkaya phát biểu: “Các dạng ghép sẽ mang lại lợi thế nhất định: nó sẽ loại bỏ hoàn toàn các biến động dược học của kích dục tố khi dùng thuốc và cũng sẽ tạo một sự phản hồi của cơ thể để kiểm soát việc tiết hormone của buồng trứng.”

    Các tế bào buồng trứng sẽ được nuôi bên trong một màng mỏng chỉ cho phép oxy và các chất dinh dưỡng vào tận các hốc nang, phòng ngừa tình trạng đáp ứng miễn dịch ở những bệnh nhân được ghép tế bào. Với liệu pháp này, chức năng của mô buồng trứng từ các người hiến tặng có thể hoạt động tốt trong cơ thể người nhận. Các nhà khoa học đã phân lập được hai loại tế bào nội tiết được tìm thấy trong buồng trứng (tế bào vỏ – theca và tế bào hạt – granulosa) từ chuột 21 ngày tuổi. Các tế bào được bao bọc bởi một loại vật liệu tương thích với cơ thể. Từ đó, họ đánh giá hoạt động của các tế bào khi sắp xếp theo ba cách khác nhau.

    Chức năng của các nang được đánh giá bằng cách cho các tế bào tiếp xúc với hormone kích thích nang trứng (Follicle Stimulating Hormone-FSH) và gây rụng trứng (Luteinizing Hormone-LH), đây là hai loại hormone từ tuyến yên có nhiệm vụ kích thích buồng trứng sản xuất hormone giới tính. Sự sắp xếp của các tế bào trong nang mô phỏng gần nhất với buồng trứng tự nhiên (lớp nền tế bào với định dạng 3D) cho hiệu quả tiết estrogen cao hơn mười lần so với các kiểu sắp xếp khác. Các nang này cũng tiết progesterone cùng với Inhibin và Activin, hai hormone quan trọng tương tác với tuyến yên và vùng dưới đồi điều khiển việc sản xuất hormone giới tính nữ.

    “Những tế bào trong các lớp nang được quan sát cho thấy có chức năng tương tự như buồng trứng. Sự tiết Inhibin và Activin cho thấy những cấu trúc này có khả năng hoạt động linh hoạt bằng cách đồng bộ hóa với hệ thống điều tiết bẩm sinh của cơ thể”, Giáo sư Opara lạc quan cho biết.

    Huỳnh Thúy Oanh
    htoanh@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/03/130326151131.htm

  • Sự căng thẳng của người cha có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não của trẻ

    Sự căng thẳng của người cha có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não của trẻ

    Tinh trùng dường như không quên một thứ gì. Sự căng thẳng thần kinh của người bố, cho dù là ở trẻ chưa dậy thì hay đã là người lớn, để lại một dấu ấn lâu dài trên tinh trùng của họ. Điều này cung cấp cho những con trai và con gái của họ những phản ứng ngốc nghếch đối với sự căng thẳng, một phản ứng liên quan đến một số rối loạn tâm thần. Những phát hiện này được công bố trong một nghiên cứu tiền lâm sàng mới trên tạp chí Neuroscience bởi các nhà nghiên cứu ở Đại học Pennsylvania, hướng đến một hiện tượng epigenetic (ngoài di truyền) chưa bao giờ được thấy trước đó với các bệnh liên quan đến sự căng thẳng chẳng hạn sự lo âu và trầm cảm truyền từ bố sang con.

    Trong khi những tác động của môi trường, chẳng hạn chế độ ăn uống, lạm dụng thuốc và căng thẳng mãn tính, cảm giác của các bà mẹ trong suốt thai kì đã được chỉ ra là có tác động lên sự phát triển thần kinh của con cái và làm tăng một số nguy cơ bệnh tật, ảnh hưởng của người bố lên những đứa con của họ dường như chưa được hiểu rõ. Tác động của thời gian sống của người bố lên những đứa trẻ thậm chí còn xa ngoài tầm với.

    Hiện nay, một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi Phó giáo sư, Tiến sĩ Tracy L. Bale về khoa học thần kinh ở trường Perelman của Viện y học về tâm thần học và trường của Viện thú y về sinh học động vật, đã chỉ ra rằng những căng thẳng trên những con chuột đực trưởng thành và chưa dậy thì đều cảm ứng một dấu ấn ngoài di truyền ở những tinh trùng của chúng, sẽ tái thiết lập chương trình trục nội tiết vùng dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận (HPA), một vùng của não chi phối sự đáp ứng lại với những căng thẳng. Thật đáng ngạc nhiên, ở đời con, cả con đực và cái đều có hoạt động phản ứng lại với những căng thẳng thấp một cách bất thường.

    Sự rối loạn điều hòa con đường stress này, kể cả khi các hoạt động phản ứng này được tăng cao hay làm giảm, là một dấu hiệu cho thấy cơ thể không có khả năng đáp ứng thích ứng lại với những thay đổi của môi trường. Và như một hệ quả, những phản ứng lại với sự căng thẳng của chúng trở nên bất thường, có thể dẫn đến những rối loạn liên quan đến sự căng thẳng.

     

    nrurol.2012.183-f1

    “Thật sự không có vấn đề gì nếu người bố trải qua suốt tuổi dậy thì hay ở tuổi trưởng thành khi stress trước khi họ kết hôn. Chúng tôi chỉ ra ở đây lần đầu tiên những căng thẳng có thể tạo nên những thay đổi trong thời gian dài đến tinh trùng mà có thể tái thiết lập chương trình sự điều hòa hệ trục căng thẳng HPA của những đứa con”, ông Bale nói. “Những phát hiện này gợi ý ra một con đường trong đó sự tiếp xúc với căng thẳng của bố có thể liên quan đến những bệnh thâm thần-thần kinh như vậy.

    Các nghiên cứu dịch tễ học trước đó cho rằng các tế bào mầm-tinh trùng và trứng- nhạy cảm hơn với sự tái thiết lập chương trình trong suốt thời kì tăng trưởng chậm của giai đoạn tiền dậy thì. Vì thế, trong nghiên cứu này, để chứng minh tác động của những căng thẳng trên người bố, chuột đực được tiếp xúc với những căng thẳng mãn tính trong 6 tuần, trước khi cho giao phối, kể cả nhưng con đang trong tuổi dậy thì hay chỉ ở giai đoạn trưởng thành. Các căng thẳng điển hình bao gồm sự thay đổi chuồng bất thình lình, dấu hiệu của động vật ăn thịt (chẳng hạn nước tiểu của cáo), tiếng ồn, hay một tác nhân lạ trong chuồng.

    Chuột đực là một mô hình lý tưởng cho những thí nghiệm như vậy bởi vì chúng không tham gia vào quá trình nuôi con, đồng nghĩa với việc bất kì nhân tố ngoại sinh nào ngoài sự tạo thành tế bào mầm về cơ bản đều được loại bỏ.

    Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng con cái của các nhóm bố mẹ bị căng thẳng biểu hiển làm giảm đi đáng kể mức độ của hormone căng thẳng corticosterone – ở người, đó là cortisol – trong phản ứng với stress.

    Để hiểu được sơ đồ thần kinh ở những đứa con, nhóm cũng đã kiểm tra những thay đổi trong biểu hiện gen ở các vùng não nhất định liên quan đến sự điều hòa căng thẳng: nhân cận não thất (paraventricular) (PVN) và vùng nhân đệm của vân tận cùng. Họ tìm thấy sự tăng biểu hiện của các gen đáp ứng glucocorticoid trong PVN, một sự thay đổi hỗ trợ một cơ chế nhờ đó sự tăng độ nhạy cảm phản hồi âm tính có thể được giải thích.

    Các nhà nghiên cứu cũng xem xét một loạt các microRNA (miRs) trong tinh trùng duy nhất đóng góp cho sự biểu hiện gen sau thụ tinh để kiểm tra sự để lại các cơ chế ngoài di truyền cho thế hệ sau. Ở cả hai nhóm của ông bố bị stress, có sự gia tăng đáng kể trong biểu hiện của chín miRs. Những miRs này có thể được nhắm mục tiêu RNA thông tin của mẹ được lưu trữ trong trứng lúc thụ tinh, do đó tinh trùng của bố có thể điều chỉnh một số khía cạnh của sự phát triển sớm để thông báo cho con cái của mình về môi trường, theo các tác giả.

    Họ cũng chỉ ra rằng một phản ứng căng thẳng sinh lý được làm giảm có thể phản ánh một số lợi ích tiến hóa thích nghi truyền cho con cái để đảm bảo sự sống trong một môi trường được dự kiến ​​sẽ căng thẳng hơn.

    “Cho dù những phản ứng căng thẳng được làm giảm sút như vậy sẽ là bất lợi hay có lợi cho con cái, nó có thể phụ thuộc vào môi trường mà trong đó họ đã được sinh ra, cũng như các yếu tố nền tảng di truyền,” họ viết trong bài báo. Tuy nhiên, họ kết luận, phát hiện rằng kinh nghiệm căng thẳng nhẹ qua một thế hệ có thể thay đổi trong tế bào mầm sinh dục đực cung cấp một cơ chế quan trọng và mới lạ góp phần vào nguy cơ mắc bệnh tâm thần kinh.

    “Tiếp theo, chúng tôi đang xem xét các cơ chế theo đó những miRs tinh trùng hoạt động trong quá trình thụ tinh, và sau đó chúng ta có thể suy nghĩ về việc sử dụng chúng như những chỉ thị sinh học trong các bệnh ở người”, ông Bale nói. “Và sau đó chúng ta có thể bắt đầu dự đoán những người đã tiếp xúc với những gì, và suy nghĩ về việc phò
    ng ngừa và điều trị trên lâm sàng.”

    Lâm Thị Mỹ Hậu
    Email: ltmhau@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/06/130612132656.htm

  • Công bố mới về tỷ lệ thành công trong đông lạnh trứng

    Công bố mới về tỷ lệ thành công trong đông lạnh trứng

    Các nhà nghiên cứu từ trường Đại học Y New York và Đại học California Davis đã hệ thống hóa lần đầu tiên mối tương quan giữa tỷ lệ sinh và xác suất liên quan đến tuổi tác sau khi tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) trứng đông lạnh. Một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi tiến sĩ Kutluk Oktay, một bác sĩ/nhà khoa học ở Đại học New York chuyên về bảo tồn khả năng sinh sản của bệnh nhân nữ ung thư, thực hiện một phân tích của chu kỳ bảo quản lạnh trứng sử dụng dữ liệu cá nhân của bệnh nhân để báo cáo khả năng sống từ chu kỳ thụ tinh ống nghiệm. Nghiên cứu  được công bố trên mạng vào tháng 5, được ban hành trên tạp chí sinh sản và Vô sinh của Hội Y học sinh sản Mỹ.

    Bên cạnh đông lạnh phôi, đông lạnh trứng là một kỹ thuật tương đối mới cho phép phụ nữ bảo tồn khả năng sinh sản của họ vì lý do y tế hoặc tự chọn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại về mặt đạo đức, pháp lý và/hoặc tôn giáo và nhiều tranh cãi về sự lão hóa trong sinh sản. Kỹ thuật này có thể được sử dụng để xây dựng ngân hàng trứng cho, cũng như hạn chế tối thiểu nguy cơ quá kích buồng trứng. Cho đến nay, những người phụ nữ đã trải qua bảo quản trứng lạnh, hoặc đông lạnh trứng, không thể dự đoán được cơ hội sinh con của họ khi trứng được cấy ghép trở lại. Oktay và nhóm nghiên cứu đã thu thập dữ liệu thô từ 10 nghiên cứu công bố trước đây về đông lạnh trứng, cho phép họ tích lũy những gì có thể là cơ sở dữ liệu lớn nhất thế giới về kết cục thai kỳ sau khi đông lạnh trứng. Sử dụng cơ sở dữ liệu này, bao gồm dữ liệu từ 2.265 chu kỳ đông lạnh trứng ở 1.805 phụ nữ ở Mỹ và châu Âu, các nhà nghiên cứu đưa ra các chỉ tiêu có thể được sử dụng để xác định tỷ lệ đông lạnh trứng thành công dựa trên tuổi của một người phụ nữ, số lượng trứng đông lạnh, và phương pháp đông lạnh trứng.

    “Nhờ vào bước đột phá này, phụ nữ và các bác sĩ sinh sản sẽ có thể sử dụng một ước lượng về tỷ lệ mang thai  để tính toán cơ hội riêng của họ và đưa ra quyết định chính xác về qui trình tiến hành”, tiến sĩ Oktay nói.

    dfbg

    Nghiên cứu cũng cho thấy, trong khi trứng đông lạnh tỷ lệ thành công suy giảm theo tuổi tác như mong đợi, có sự sụt giảm rõ nét hơn sau 36 tuổi. Mặc dù có thể mang thai từ trứng đông lạnh được cấy ghép cho đến tận tuổi 44, tỷ lệ thành công là ít hứa hẹn sau khi 42 tuổi.

    Lâm Thị Mỹ Hậu
    ltmhau@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/05/130529154642.htm

  • Sự hoạt hóa gene làm chuột đồng thảo nguyên yêu nhau

    Sự hoạt hóa gene làm chuột đồng thảo nguyên yêu nhau

    Sự biến đổi ngoài di truyền ảnh hưởng dến các tín hiệu dẫn truyền thần kinh dẫn đến hình thành sự ghép cặp.

    Tình yêu thật sự thay đổi trí não của bạn- ít nhất nếu bạn là một con chuột thảo nguyên!

    Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên chỉ ra rằng hoạt động giao phối kích thích sự biến đổi về mặt hóa học trong cấu trúc nhiễm sắc thể một cách bền vững. Sự biển đổi ngoài di truyền này ảnh hưởng rất nhiều đến sự biểu hiện của gene điều hòa tập tính giao phối và sự “chung thủy” (tập tính một vợ một chồng) ở động vật.

    Chuột thảo nguyên (Microtus ochrogaster) từ lâu đã được các nhà khoa học thần kinh và nội tiết rất ưa chuộng trong việc sử dụng để nghiên cứu tập tính của động vật một phần là do loài này có tập tính giao phối ghép cặp một vợ một chồng. Mối liên hệ này giúp chúng trở thành mô hình lý tưởng để hiểu sâu hơn về tập tính sinh học quan hệ một vợ một chồng ở người.

    Các nghiên cứu trước đây cho thấy chất dẫn truyền thần kinh oxytocin và vasopressin có vai trò chính trong việc thúc đẩy và điều hòa hình thành sự ghép cặp. Chuột thảo nguyên đã được ghép biểu hiện ở mức cao các thụ thể cho các chất dẫn truyền thần kinh hơn những con chuột chưa được ghép. Thí nghiệm khác được thực hiện trên những con chuột đồng núi chưa ghép đôi (M. montanus) nhưng được tiêm oxytocin và vasopressin, chúng có những hành vi một vợ một chồng của những con chuột thảo nguyên họ hàng.

    Vì hành vi dường như có vai trò chủ đạo trong việc thay đổi đặc điểm sinh học thần kinh của động vật, các nhà khoa học nghi ngờ hiện tượng này có liên quan đến sự biến đổi ngoài di truyền (epigenetics). Cụ thể, có nhiều sự biến đổi hóa học xảy ra trên nhiễm sắc thể ảnh hưởng đến sự phiên mã hay ức chế biểu hiện gene.

     

    gv

    Giao phối thông thường kích thích các con chuột đồng thảo nguyên hình thành mối quan  hệ lâu dài, nhưng các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng sự giao phối có thể dẫn đến sự  hoạt hóa một số gene ở não chuột

    Bùa yêu!

    Để tìm kiếm các dữ kiện cho việc các nhân tố ngoài di truyền giữ vai trò quan trọng trong tập tính một vợ một chồng, Mohamed Kabbaj và nhóm nghiên cứu ở Đại học ban Florida đem những con chuột đồng nhốt chung với nhau trong 6 giờ nhưng không cho phối. Các nhà nghiên cứu tiêm thuốc vào não chuột ở gần vùng gọi là nucleus accumbens, vùng có liên kết chặt chẽ với cảm giác vui và sự đền ơn. Thuốc ức chế hoạt động của enzyme bình thường giữ chặt DNA và do đó ngăn chặn sự biểu hiện gene.

    Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng khi được tiêm thuốc, các gene biểu hiện thụ thể vasopressin và oxytocin được phiên mã và kết quả là vùng nucleus accumbens của những con chuột đó sản sinh rất nhiều những thụ thể này. Những con chuột được phối cũng có lượng thụ thể vasopressin và oxytocin rất cao. Kết quả này cho thấy có sự liên quan mật thiết giữa sự ghép đôi và hoạt động gene.

    Kabbaj giải thích rằng: “Quá trình giao phối hoạt hóa vùng não này dẫn đến sự yêu thích đối tác- do đó chúng ta có thể tăng sự thay đổi đó trong não với loại thuốc này”

    Điều thú vị là việc tiêm thuốc đơn lẻ không thể dẫn đến sự yêu thích đối tác. Kabbaj nói: “ Thuốc không thể tạo nên tất cả sự biến đổi phân tử này- bạn cần có hoàn cảnh: đó là kết hợp tiêm thuốc cùng với 6 giờ sống chung”

    Đây cũng là nghiên cứu mà Thomas Insel, người dẫn đầu US National Institute of Mental Health ở Bethesda, Maryland muốn làm nhiều năm trước. Nếu phối giống dẫn đến phóng thích neuropeptide, làm thế nào điều này tác động ở mức cao hơn cho quãng đời còn lại của con vật? Nghiên cứu này là minh chứng thực nghiệm đầu tiên cho thấy sự thay đổi ngoài di truyền có thể cần thiết cho sự thay đổi lâu dài trong hành vi/ tập tính của sinh vật.

    Kabbaj hy vọng rằng nghiên cứu này có thể giúp hỗ trợ việc hiểu làm thế nào để các tác nhân ngoài di truyền tác động lên hành vi xã hội của con người- không chỉ trong hành vi một vợ một chồng mà còn trong các điều kiện bệnh lý về tâm thần như tự kỷ và tâm thần phân liệt.

    Nguyễn Thị Phương Dung

    Email: ntpdung2603@gmail.com

    Nguồn: http://www.nature.com/news/gene-switches-make-prairie-voles-fall-in-love-1.13112

     

  • Ảnh hưởng của các tuyến tiết trong đường sinh dục

    Ảnh hưởng của các tuyến tiết trong đường sinh dục

    Sự hình thành và phát triển của giao tử cái (trứng) trong buồng trứng là một quá trình lâu dài bắt đầu từ trong phôi thai và kéo dài đến tuổi trưởng thành, bên cạnh đó, nó còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác, vì thế giao tử cái trở thành một trong những tế bào quý giá nhất của cơ thể. Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng cơ thể có cơ chế nào đó đảm bảo trứng rụng vào đường sinh dục vào đúng thời điểm để tăng cơ hội thụ tinh thành công.

    Nghiên cứu mới từ Carnegie’s Allan Spradling và Jianjun Sun đã làm sáng tỏ về sự thành công trong rụng trứng và thụ tinh khi quan sát quá trình này ở ruồi giấm. Họ phát hiện các tuyến đặc biệt trong đường sinh sản của ruồi giấm tiết ra một số chất góp phần vào chức năng rụng trứng và thụ tinh, sự tiết này được kiểm soát bởi một gen thụ thể cho hormone gọi là Hr39. Kết quả của họ cũng cho thấy rằng LRH-1, một thụ thể có ở động vật có vú liên quan chặt chẽ với Hr39, cũng điều khiển rụng trứng bằng cách kiểm soát dịch tiết đường sinh sản ở động vật có vú. Phát hiện của họ được công bố bởi eLife.

    13-6

    Ruồi giấm (Drosophila Melanogaster)

    Sun và Spradling đã đưa ra các bằng chứng về các quá trình sinh học ở các mô tương tự nhau giữa các loài lại rất khác nhau, chẳng hạn như côn trùng. Các quá trình này là kết quả của sự tiến hóa chung ở hầu như tất cả các sinh vật đa bào trên Trái đất. Với những điểm tương đồng, các nhà nghiên cứu di truyền có thể sử dụng ruồi giấm để xác định các gen và các con đường kiểm soát một quá trình sinh học – trong trường hợp này là sự rụng trứng – và sau đó sử dụng trình tự bộ gen để xác định các gen tương ứng ở các loài khác, bao gồm cả con người.

    Sun và Spradling triển khai dự án từ một vài năm trước bằng cách mô tả các tuyến có trong buồng trứng. Sau đó, họ bắt đầu can thiệp vào sự phát triển bình thường của ruồi giấm để tạo ra ruồi có số lượng tế bào tiết theo ý muốn của họ, thậm chí từ không có tế bào nào đến khoảng 200 tế bào tiết, trong đó chức năng tiết được bật/tắt theo điều khiển của họ. Họ có thể tạo ra những con chuột với những đặc điểm tương tự, tuy nhiên đây là một thách thức lớn và cần nhiều thời gian hơn. Tất nhiên, các nghiên cứu như vậy sẽ không được thực hiện trên người.

    Bằng các thiết bị đặc biệt, các nhà nghiên cứu xác nhận vai trò quan trọng của dịch tiết đường sinh sản là bảo vệ và lưu trữ tinh trùng. Với ít nhất 25 tế bào tiết, các sản phẩm của chúng thu hút tinh trùng đến các tuyến, nơi tinh trùng có thể an toàn khi bị bao phủ trong dịch tiết. Ở người, sự lưu trữ diễn ra tương tự tại vòi Fallop. Tinh trùng được an toàn tại đây chỉ trong vài ngày, nhưng trong trường hợp của ruồi giấm có thể hơn một tuần. Khi sự tiết bất thường, tinh trùng gặp khó khăn trong việc di chuyển đến các tuyến và gây ra những thay đổi bất lợi.

    Sự tiết “máy móc” là một tín hiệu cho biết đường sinh dục đã sẵn sàng tiếp nhận sự rụng trứng. Việc chờ tín hiệu trước khi phóng thích trứng có thể làm tăng cơ hội trứng đi vào đường sinh dục hoặc tăng khả năng thụ tinh.

    Một số sản phẩm tiết hỗ trợ cho sự rụng trứng trong khi một số chất khác thu hút và lưu trữ tinh trùng. Việc xác định các sản phẩm của tế bào tiết (và các gen tương ứng) cần cho quá trình rụng trứng là một bước quan trọng trong việc tìm hiểu cơ chế của quá trình bí ẩn này.

    Nghiên cứu này cho thấy sự liên quan với ung thư buồng trứng, trong thời gian gần đây đã được chứng minh là xuất phát từ những tế bào tiết bất thường ở đường sinh dục. Các gen mục tiêu và các con đường mà tế bào sử dụng trong việc thực hiện chức năng bình thường là mục tiêu khi nghiên cứu về sự phát triển của tế bào ung thư. Và các nghiên cứu sâu hơn về gen Lrh1 là rất cần thiết trong việc ngăn chặn căn bệnh này.

    Huỳnh Thúy Oanh
    htoanh@hcmus.edu.vn
    Nguồn:  http://www.sciencedaily.com/releases/2013/04/130417114101.htm

  • Sự liên quan giữa khả năng sinh sản của phụ nữ và hệ thống miễn dịch

    Một nghiên cứu mới cho rằng chức năng sinh sản của phụ nữ có thể được gắn với tình trạng miễn dịch của cơ thể. Trước đây, một số công trình đã tìm thấy sự liên quan này ở nam giới nhưng chưa tìm thấy sự liên quan ở phụ nữ. Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Journal of Human Biology.

    Trong cơ thể sinh vật, quá trình đồng hóa và dị hóa luôn diễn ra song song nhằm mục đích dự trữ, cung cấp chất dinh dưỡng và năng lượng cho sự sinh trưởng và phát triển của cá thể. Vì vậy, nguồn năng lượng trong cơ thể luôn được sử dụng một cách cẩn thận để tạo sự hoạt động hiệu quả nhất trong hoạt động sống của cá thể đó. Ưu tiên hàng đầu của cơ thể là sự bảo trì, trong đó bao gồm các nhiệm vụ liên quan đến sự tồn tại, duy trì chức năng của các cơ quan hoạt động đồng bộ, bình thường, trong đó bao gồm cả chức năng miễn dịch, lượng năng lượng còn lại sẽ dành cho sự sinh sản, duy trì nòi giống. Luôn có một sự phân bổ đồng đều trong việc sửa chữa, bảo vệ cơ thể và sự sinh sản. Các vấn đề về stress và ảnh hưởng của môi trường có thể làm mất cân bằng việc này, Giáo sư Kathryn Clancy, tác giả của nghiên cứu, đứng đầu Phòng thí nghiệm Tiến hóa về Nội tiết (The Laboratory for Evolutionary Endocrinology) cho biết.

    mien_dich_va_ss

    Sự tương quan giữa hệ miễn dịch và khả năng sinh sản

    Những tình nguyện viên trong nghiên cứu là một nhóm phụ nữ Ba Lan khỏe mạnh, sống ở nông thôn, đang trong giai đoạn tiền mãn kinh và vẫn đang thực hiện tập quán canh tác truyền thống hằng ngày. Các nhà khoa học tiến hành thu nhận mẫu nước tiểu và nước bọt của họ trong mùa thu hoạch, khi mà mức độ hoạt động thể chất đang ở cường độ cao. Quá trình này vô tình cung cấp một nguồn năng lượng tự nhiên và dồi dào trong việc cân bằng cơ thể. Các nghiên cứu trước đó cho thấy sự ức chế buồng trứng cao nhất xảy ra trong khoảng thời gian này.

    Hàng ngày, các nhà nghiên cứu kiểm tra nồng độ các hormone do buồng trứng tiết ra có trong nước bọt của các tình nguyện viên khi họ đang trong chu kỳ kinh nguyệt. Họ cũng kiểm tra mẫu nước tiểu để đo mức độ protein do phản ứng-C (CRP), một dấu hiệu thường thấy trong các phản ứng viêm. “Tùy thuộc vào một số yếu tố mà CRP có thể cho biết về chức năng miễn dịch hoặc các căng thẳng mà cơ thể đang có vì CRP có sự tương quan với những điều đó trong quần thể sinh vật”, Giáo sư Clancy giải thích. Các nhà khoa học đã quan sát mối liên hệ trái ngược giữa CRP và progesterone trong những tình nguyện viên có hàm lượng CRP cao và progesterone thấp. Ngoài ra, họ cũng phát hiện rằng estradiol và lần kinh nguyệt đầu tiên là yếu tố dự báo đáng tin cậy nhất về nồng độ CRP.

    Clancy nhấn mạnh rằng vẫn còn quá sớm để có thể kết luận sự viêm có liên quan đến việc giảm tiết hormone buồng trứng. Tuy nhiên, bà cho rằng có hai giả thuyết để giải thích những kết quả trên. Thứ nhất là do cơ chế nội mô của sự viêm cục bộ khiến cho CRP có mức độ cao hơn và ức chế sự tiết progesterone. Một nguyên nhân khác là do căng thẳng tâm lý hoặc các ảnh hưởng của sự quá tải trong hệ miễn dịch về việc đáp ứng các vấn đề của cơ thể như sự bảo vệ khỏi các tác nhân xâm nhiễm (vi khuẩn, virus) hay một số vấn đề về dị ứng (kháng nguyên không hoàn toàn-hapten) nên gây ức chế và giảm tiết các loại hormone buồng trứng.

    Từ các quan điểm nhân chủng học, những nghiên cứu này thực sự quan trọng vì nó giúp chúng ta tìm hiểu các thời kỳ khác nhau trong quá trình sinh trưởng của con người: các thay đổi về hình thể, tâm sinh lý, các quá trình xảy ra bên trong cơ thể của chúng ta tương ứng với một giai đoạn phát triển của cơ thể. “Đây thực sự là điều rất thú vị, nó cho ta biết thời điểm thích hợp để sinh sản và từ đó phân bổ và sắp xếp lại mọi thứ để tạo cơ hội thuận lợi nhất cho việc chuẩn bị làm mẹ và chăm sóc con cái”, Giáo sư Clancy cho biết.

    Huỳnh Thúy Oanh
    htoanh@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/05/130517152435.htm

  • Phát hiện cơ chế sinh sản quan trọng

    Các nhà khoa học tại Mainz và Aachen vừa tìm ra một cơ chế mới điều khiển sự thụ tinh của trứng và có thể trở thành một phương pháp trị liệu trong tương lai. Giáo sư Walter Stöcker-Viện Động vật học- Đại học Johannes Gutenberg, Mainz (JGU) đã tìm ra vai trò chưa từng được biết đến trước đây của một loại protein huyết tương-tetuin B liên quan đến sự thụ tinh của trứng. tetuin-B được phát hiện năm 2000, được sản xuất ở gan và tiết vào máu. Trong suốt quá trình tham gia dự án với các nhà nghiên cứu tại RWTH Aachen University được dẫn đầu bởi Giáo sư Willi Jahnen-Dechent của Viện Helmholtz về kỹ thuật Y Sinh, họ đã nhận ra tetuin-B góp phần trong sự thụ tinh của trứng bằng cách can thiệp vào sự hóa cứng màng pellucida của tế bào trứng.

    Fetuin-B

    Sự thụ tinh của trứng trong trường hợp có và không có tetuin-B (Walter Stöcker, Institute of Zoology, JGU)

    Các nhà khoa học phát hiện chuột cái thiếu tetuin-B thì sẽ vô sinh ngay cả khi buồng trứng của chúng phát triển bình thường và khả năng sinh sản của buồng trứng được khôi phục khi buồng trứng của chúng được cấy ghép cho những con chuột hoang dại với khả năng sản xuất tetuin-B bình thường. “Điều này cho thấy rằng không phải buồng trứng mà chính protein huyết tương tetuin-B mới là nhân tố quyết định liệu những con chuột có sinh sản được hay không,” Stöcker giải thích.

    Vai trò của các protein huyết tương tetuin-B được giải thích theo cơ chế như sau: Tế bào trứng của con người và các động vật có vú khác được bao quanh bởi một màng bảo vệ được gọi là màng trong suốt (Zona pellucida). Sau khi có sự xâm nhập thành công của tinh trùng vào trứng, zona pellucida lập tức hóa cứng, điều này có ý nghĩa trong việc ngăn ngừa sự đa thụ tinh (polyspermy). Sự đa thụ tinh sẽ làm cho phôi phát triển bất thường và chết trước khi bước vào các giai đoạn phát triển tiếp theo. Sự hóa cứng màng pellucida được kích hoạt bởi các enzyme phân giải protein ovastacin, các ovastacin protease được lưu trữ tại các túi bên trong tế bào trứng. Khi tinh trùng đầu tiên thâm nhập vào trứng, protease được giải phóng ra khoảng giữa màng tế bào trứng và màng trong suốt, phản ứng này được gọi là phản ứng vỏ.

    Tuy nhiên, ở những tế bào trứng chưa thụ tinh, một lượng nhỏ ovastacin vẫn liên tục thấm từ trứng ra khoảng giữa 2 màng và điều này sẽ gây ra sự hóa cứng màng trước khi tinh trùng đầu tiên có thể xâm nhập. “Vai trò của tetuin-B là đảm bảo lượng ovastacin thoát ra bị bất hoạt bằng cách bắt dính vào các phân tử ovastacin này”, Giáo sư Stöcker bổ sung. “Tuy nhiên, một khi tinh trùng đã xâm nhập tế bào trứng, phản ứng vỏ sẽ được kích hoạt và số lượng ovastacin tiết ra sẽ vượt quá khả năng ức chế của tetuin-B và quá trình làm cứng được khởi động.”

    Đây là lần đầu tiên sự hóa cứng sớm của màng trong suốt được xem là một nguyên nhân gây ra vô sinh. Vì thế, điều này có thể là khởi đầu cho các nghiên cứu tiếp theo về điều trị vô sinh.
    Huỳnh Thúy Oanh
    htoanh@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/04/130424102938.htm
  • Vi khuẩn đường ruột có thể chống lại bệnh béo phì và tiểu đường

    Ruột là nơi có vô số vi khuẩn khác nhau – một hệ sinh thái phức tạp có vai trò tích cực trong một loạt các chức năng của cơ thể. Trong một nghiên cứu được công bố tuần này thuộc Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, một nhóm các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ở chuột, chỉ một trong số các loài vi khuẩn này đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát béo phì và các bệnh rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường type 2.

    Vi khuẩn, Akkermansia muciniphila, có tác dụng tiêu hóa dịch nhầy và chiếm 3-5% các vi khuẩn trong ruột của một động vật có vú khỏe mạnh. Nhưng trong đường ruột người và chuột béo phì, cũng như những người bị bệnh tiểu đường loại 2, chúng có mức độ thấp hơn nhiều. Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Công giáo Louvain ở Bỉ do Patrice Cani dẫn đầu đã quyết định nghiên cứu sự tương tác giữa vi khuẩn đường ruột và cơ chế chuyển hóa.

    23-5

    Các nhà nghiên cứu thấy rằng những con chuột được cho ăn theo chế độ ăn uống nhiều chất béo có lượng A. muciniphila trong ruột ít hơn 100 lần những con chuột được cho ăn theo chế độ bình thường. Các nhà nghiên cứu đã có thể khôi phục lại mức vi khuẩn bình thường bằng cách cho chuột ăn vi khuẩn sống A. muciniphila, cũng như các loại thực phẩm “prebiotic” để khuyến khích sự phát triển của vi khuẩn đường ruột.

    Những tác động của quá trình điều trị này thật sự rất ấn tượng. So với những con chuột không được điều trị, những con chuột có điều trị đã giảm trọng lượng và có tỷ lệ chất béo trên khối lượng cơ thể tốt hơn, cũng như giảm sự kháng insulin và có lớp chất nhầy ruột dày hơn. Họ cũng thấy được sự cải thiện trong một loạt các chỉ số khác liên quan đến bệnh béo phì và rối loạn chuyển hóa.

    Cani và cộng sự đã bắt đầu làm sáng tỏ các cơ chế phức tạp mà qua đó vi khuẩn có thể ảnh hưởng đến sự trao đổi chất. Khôi phục lại mức vi khuẩn A. muciniphila ở mức bình thường dẫn đến làm tăng mức độ cannabinoid nội sinh trong đường ruột, một phân tử tín hiệu giúp kiểm soát nồng độ đường huyết và duy trì khả năng phòng vệ của đường ruột đối với vi khuẩn có hại.

    Cani cho rằng A. muciniphila dường như có một “thương thuyết” với các tế bào của niêm mạc ruột và hệ thống miễn dịch để gửi một tín hiệu tác động đến việc sản xuất ra các phân tử kháng khuẩn, cũng như tăng sản xuất chất nhầy.  Cani “tin” rằng một ngày nào đó A. muciniphila có thể được sử dụng để điều trị các rối loạn như bệnh béo phì, tiểu đường và viêm đại tràng ở người.

    Nguyễn Thị Kiều Oanh
    ngtkioanh@gmail.com
    Nguồn:  http://www.nature.com/news/gut-microbe-may-fight-obesity-and-diabetes-1.12975

  • Mức estrogen quá cao có thể gây biến chứng đối với các trường hợp mang thai đơn sinh nhờ IVF

    Các nhà nghiên cứu thuộc Bệnh viện Đa khoa Massachusetts (Massachusetts General Hospital – MGH) đã xác định được một nhân tố có thể đóng vai trò quan trọng đằng sau sự gia tăng nguy cơ khi sinh của các ca thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Hai bài báo đăng trên tạp chí “Sinh sản và Vô sinh” ủng hộ giả thuyết rằng hàm lượng estrogen quá cao tại thời điểm chuyển phôi làm gia tăng nguy cơ trẻ được sinh ra nhỏ hơn tuổi thai và nguy cơ Tiền sản giật (Pree-clampsia), một tình trạng nguy hiểm có thể đe dọa tính mạng của cả mẹ và con. Họ cũng đưa ra một phương pháp nhằm giảm những nguy cơ này dựa trên thử nghiệm trong một nhóm nhỏ bệnh nhân.

    Cả hai bài báo đều đề cập đến những ca mang thai do IVF dẫn đến đơn sinh, không phải những ca đa sinh, đa sinh hiện nay vẫn là yếu tố nhiều nguy cơ nhất của bất kỳ công nghệ hỗ trợ sinh sản. Nhưng những ca mang thai IVF đơn sinh được hỗ trợ lại có nhiều khả năng dẫn đến sinh non, nhẹ cân và những biến chứng nghiêm trọng khác hơn mang thai đơn sinh không được hỗ trợ. Trong số ra tháng 1/2013, các nhà điều tra tại Khoa Sản của MGH báo cáo rằng nên đông lạnh phôi của phụ nữ có lượng estrogen quá cao tại thời điểm thu trứng, và chuyển phôi vào chu kỳ sinh sản muộn khi lượng hoóc-môn gần giống với một chu kỳ tự nhiên, sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ trẻ sơ sinh nhỏ và loại bỏ tỷ lệ tiền sản giật trong một nhóm nhỏ các bệnh nhân.

    Tại hầu hết các trung tâm sinh sản, IVF bao gồm một quy trình gồm nhiều giai đoạn phối hợp để kích thích buồng trứng, dẫn đến sự phát triển và trưởng thành của nhiều trứng cùng một lúc. Trước khi rụng, trứng được lấy ra để thụ tinh bên ngoài cơ thể người mẹ. Nếu thụ tinh thành công và có vẻ phát triển bình thường, phôi sẽ được chuyển vào tử cung của mẹ trong vòng 5 ngày kể từ ngày thu trứng theo một quy trình được gọi là cấy truyền phôi tươi.

    ivf

    Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm IVF

    Tế bào trứng phát triển và trưởng thành trong những túi nhỏ của buồng trứng được gọi là nang trứng, nơi tạo ra rất nhiều estrogen, vì vậy sự phát triển của nhiều nang trưởng thành có thể dẫn đến nồng độ estrogen cao đáng kể. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy lượng estrogen quá cao trong thai kỳ sớm có thể cản trở sự phát triển của nhau thai, và các nghiên cứu khác đã liên kết những bất thường nhau thai với sự tăng nguy cơ trong tiền sản giật và trẻ sơ sinh nhỏ.

    Trong số tháng 6/2012 của tạp chí “Sinh sản và Vô sinh”, nhóm nghiên cứu thuộc MGH báo cáo rằng: trong số gần như 300 ca mang thai IVF đơn sinh từ ​​năm 2005 đến 2010, những phụ nữ có nồng độ estrogen ngay trước khi thu trứng cao sẽ có tỷ lệ mắc tiền sản giật và trẻ sơ sinh nhỏ cao hơn rất nhiều so với những trường hợp bình thường. Những phụ nữ có đỉnh estrogen cao từ 90% trở lên có nguy cơ cao gấp chín lần sinh trẻ sơ sinh nhỏ và cao gấp năm lần bị tiền sản giật.

    Theo quan sát đó, nhóm nghiên cứu thuộc MGH đã kiểm tra bằng cách nào mà một quy trình được thiết lập cho các bà mẹ có nguy cơ biến chứng khi điều trị khả năng sinh sản, được gọi là hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS), có thể tác động lên những nguy cơ liên quan đến nồng độ estrogen rất cao. Tại Trung Tâm Sinh Sản MGH, nếu nồng độ estrogen của bệnh nhân dùng thụ tinh trong ống nghiệm vượt quá 4.500 pg/ml vào ngày dự kiến ​​họ sẽ được nhận mũi kích hoạt nội tiết tố cuối cùng giúp trưởng thành trứng – cho thấy nguy cơ bị hội chứng OHSS – cần tiến hành ​​tư vấn cho bệnh nhân các lựa chọn thay thế. Các lựa chọn này bao gồm hoãn quy trình cho đến chu kỳ IVF trong tương lai, hoặc tiến hành thu trứng và thụ tinh nhưng đông lạnh phôi, chờ cấy vào chu kỳ sau để có thời gian cho buồng trứng phục hồi.

    Báo cáo của nhóm vào tháng 1 đã so sánh kết quả của 20 bệnh nhân chọn đông lạnh phôi của họ và cấy vào sau vì nguy cơ bị hội chứng OHSS, với kết quả của 32 bệnh nhân có nồng độ estrogen trước khi thu trứng lớn hơn 3.450 pg/ml và lựa chọn chuyển phôi tươi. Ở những bà mẹ lựa chọn đông lạnh phôi và chuyển vào ở chu kỳ tiếp theo, chỉ có 10% trẻ sinh ra nhỏ hơn tuổi thai, con số này nhỏ hơn rất nhiều so với 35% trẻ sơ sinh của những bà mẹ chuyển phôi tươi. Trong khi tỷ lệ bị tiền sản giật sau khi chuyển phôi tươi là gần 22% thì không ai trong số các bệnh nhân đã chọn đông lạnh phôi phát triển tiền sản giật.

    Đặng Thanh Long
    dtlong@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/02/130225131624.htm

  • Hợp chất trong nước bọt của người có tác dụng đẩy nhanh tốc độ làm lành vết thương

    Theo các nhà khoa học Hà Lan, một hợp chất có trong nước bọt của người giúp đẩy nhanh quá trình làm lành vết thương. Nghiên cứu này có thể đem lại hi vọng cho những bệnh nhân phải chịu đựng những vết thương không lành mãn tính do bệnh tiểu đường, chấn thương và bỏng. Bên cạnh đó, những hợp chất này có thể sản xuất hàng loạt nên chúng có tiềm năng trở thành thuốc kháng sinh ở dạng kem và cồn sát trùng.

    “Chúng tôi hi vọng nghiên cứu này giúp ích cho những bệnh nhân phải chịu đựng những vết thương không lành như loét chân, loét do bị tiểu đường cũng như cho nhiều phương pháp trị liệu vết thương do chấn thương như bỏng”, theo Menno Oudhoff.

    Cụ thể, các nhà khoa học tìm thấy histatin, một loại protein kích thước nhỏ trong nước bọt có khả năng giết vi khuẩn, có vai trò trong quá trình làm lành vết thương. Trong thí nghiệm của mình, các nhà nghiên cứu nuôi cấy tế bào biểu mô ở mặt trong của má trên đĩa đến khi mặt đĩa được phủ đầy các tế bào. Sau đó, vết thương nhân tạo trên lớp tế bào ở mỗi đĩa được tạo ra bằng cách cạo một đường để loại bỏ các tế bào.Ở đĩa đối chứng, tế bào được ủ với dung dịch đẳng trương. Ở đĩa thí nghiệm, tế bào được ủ với nước bọt của người.

    Sau 16 giờ, các nhà khoa học nhận thấy rằng vết thương được xử lí với nước bọt hầu như lành hẳn. Ở đĩa có chứa vết thương không được xử lí với nước bọt, phần lớn vết thương vẫn chưa lành. Điều này chứng minh rằng nước bọt của người chứa nhân tố giúp đẩy nhanh quá trình đóng kín vết thương của các tế bào ở miệng. Bởi vì nước bọt là một hỗn hợp gồm nhiều thành phần nên bước tiếp theo là xác định thành phần nào có tác dụng trong quá trình làm lành vết thương. Bằng cách sử dụng nhiều kỹ thuật, các nhà nghiên cứu phân tích nước bọt thành các thành phần riêng lẻ, kiểm tra chúng trên mô hình vết thương và cuối cùng kết luận rằng histatin có vai trò quan trọng đối với sự làm lành.

    histatin

    Cấu trúc protein Histatin-1

    “Nghiên cứu này không chỉ trả lời cho câu hỏi: Tại sao động vật hay liếm vào vết thương của chúng”, Gerald Weissmann phát biểu. “ Nó còn giải thích tại sao vết thương trong miệng hay nhổ răng thì lành nhanh hơn những vết thương ở da và xương. Nghiên cứu này cho thấy tiềm năng sử dụng nước bọt như một loại thuốc mới”.

    Trương Thị Hoàng Mai
    tthmai@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2008/07/080723094841.htm