Chào mừng 94 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 3/2/1930 – 3/2/2024, Chi Bộ Viện tế bào gốc đã tới thăm và tặng quà cho Lớp học tình thương, Khu Phố 5, Phường Linh Trung, Thủ Đức.
Category: Tế bào gốc trưởng thành
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT PHÒNG THÍ NGHIỆM NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC
LẦN THỨ 17 24/12/2007 – 24/12/2023
Nhân dịp sinh nhật lần thứ 17 Phòng thí nghiệm năm 2023, Lãnh đạo và tập thể Thầy Cô PTN đã cùng nhau tổ chức một buổi tiệc nhỏ để chúc mừng cho sự kiện ý nghĩa này. Nhân đây, tập thể PTN cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành tới Quí Thầy Cô, đồng nghiệp, các bạn NCS/HVCH/SV, và đối tác thời gian qua đã cùng hợp tác, đồng hành, ủng hộ vào sự phát triển chung của PTN. Xin chúc tất cả quí vị một mùa giáng sinh 2023 và năm mới 2024 nhiều thành công, tốt đẹp.
-
SẮP THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG TỬ CUNG NHÂN TẠO?
Lược dịch: Lê Văn Trình
Link bài gốc: https://www.nature.com/articles/d41586-023-02901-1
Các nhà chức trách Mỹ đang xem xét các thử nghiệm lâm sàng về một số hệ thống giả lập tử cung, nỗ lực trong việc giảm tỷ lệ tử vong và khuyết tật ở trẻ sinh non.
Năm 2017, các nhà nghiên cứu tại bệnh viện nhi Philadelphia ở Pennsylvania đã tiến hành thử nghiệm sử dụng tử cung nhân tạo để nuôi thai cừu. Thành công của nghiên cứu đã nhanh chóng lan tỏa rộng rãi, khiến người ta mường tượng ra tương lai về việc tạo ra con người hoàn toàn từ phòng thí nghiệm.
Hiện tại, nhóm nghiên cứu đang mong đợi được cấp phép thử nghiệm lâm sàng đầu tiên cho thiết bị có tên EXTEND (the Extra-uterine Environment for Newborn Development). Mục đích của thiết bị nhằm mô phỏng được một số điều kiện tự nhiên của tử cung, qua đó giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sinh non. Ở người, sinh non là trường hợp mang thai dưới 28 tuần, chỉ bằng 70% thời gian của việc mang thai thông thường là kéo dài 40 tuần.
Cơ quan quản lý dược và thực phẩm, FDA của Mỹ sẽ họp bàn với các chuyên gia độc lập để xem xét về thử nghiệm này vào ngày 19 và 20 tới đây. Sự kiện đang được rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quan tâm và chờ đợi.
Sinh non là nguyên nhân lớn nhất dẫn tới tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi. Năm 2020, cả thể giới có khoảng 13.4 triệu ca sinh non và là nguyên nhân tử vong của 900.000 trẻ vào năm 2019. Việc sinh non trong khoảng 22-28 khiến cho cơ thể trẻ khong được bảo vệ và nuôi dưỡng trong bào thai trong khi các hệ cơ quan vẫn chưa hoàn toàn trưởng thành về mặt chức năng. Khi tiếp xúc với môi trường bên ngoài, trẻ dễ bị mắc các bệnh lý khác nhau về miễn dịch, hô hấp, thần kinh…
Hệ thống tử cung nhân tạo là một túi sinh học chứa dung dịch tương tự dịch ối để cung cấp môi trường cho trẻ sinh non tiếp tục phát triển. Ngoài ra, túi dịch ối này được kết nối với hệ thống bơm máu chứa oxy tương tự như khi bào thai trong cơ thể.
Một số cách tiếp cận khác: ngoài hệ thống EXTEND, nhiều nhà nghiên cứu khác trên thế giới cũng đang phát triển tử cung nhân tạo theo một số cách tiếp cận khác. Hệ thống life support như hình dưới đây là một ví dụ.
-
THỰC HIỆN NHỮNG CÔNG TRÌNH LỚN KHÔNG PHẢI LÀ CON ĐƯỜNG DUY NHẤT THÀNH CÔNG TRONG HỌC THUẬT
Khi còn là sinh viên tham dự các buổi hội thảo, Tôi tiếp thu được rằng để thành công trong con khoa học, bạn cần thực hiện những dự án có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Cho đến khi Tôi trở thành một Phó giáo sư và bắt đầu xây dựng phòng thí nghiệm của mình, Tôi cũng hướng tới mục tiêu như vậy.
Tôi bắt đầu tìm kiếm những đồng nghiệp tiềm năng để xây dựng đội ngũ thực hiện những dự án lớn, họ ủng hộ ý tưởng và đề xuất của Tôi. Tuy nhiên, họ lại tỏ vẻ nghi ngờ khi thấy Tôi chưa có các công trình lớn và họ đã từ chối hợp tác. Cũng vậy, khi Tôi đi xin tài trợ cho các dự án lớn của mình, với một lý lịch khoa học hạn chế, Tôi cũng thường xuyên bị từ chối. Tôi bắt đầu thừa nhận rằng, thực hiện một dự án lớn là một viễn cảnh khó khăn với điều kiện phòng lab thiếu thốn và các học viên vẫn còn trẻ của mình.
Các học trò đã nói với Tôi rằng, Thầy đã phải đầu tư bao nhiêu tiền, trí óc và thời gian chỉ để thực hiện các dự án lớn này? Quá nhiều áp lực, bọn Em không biết rằng mình có hoàn thành được những mục tiêu ấy không? Hơn 2 năm với tư duy ấy, nhiều nỗ lực nhưng không gặt hái được kết quả như mong đợi. Tôi vỡ ra rằng, có lẽ những dự án lớn không phải là con đường duy nhất, những dự án nhỏ không phải là thứ vất đi.
Tôi bắt đầu tiến hành nhiều nghiên cứu chỉ mang tính thăm dò, cho dù các nghiên cứu này không quá lớn về mặt khoa học, nhưng Tôi cảm thấy hài lòng với những ý tưởng của mình.
Dần dần, óc sáng tạo của Tôi được giải phóng. Tôi ghép nối những dự án này với nhau thay vì lặp lại cách tiếp cận của các công trình lớn. Không còn nhất thiết phải công bố trên các tạp chí hàng đầu, Tôi đã đủ dũng cảm để thay đổi hướng nghiên cứu không phải là chuyên môn chính của mình. Tìm đọc công trình ở các lĩnh vực mới, Tôi tìm ra mối liên kết liên ngành. Tôi thảo luận với các đồng nghiệp và học trò về những dự án có chi phí thấp (cả thời gian và trí óc), đã thu hút được sự cộng tác của rất nhiều nhà nghiên cứu trẻ. Chúng Tôi cùng xin tài trợ và bắt đầu công bố các kết quả, mặc dù không phải là các công trình lên trang nhất, nhưng chúng tôi cảm thấy hài lòng về điều ấy.
Tôi vẫn nhận được rất nhiều ý kiến trái chiều về việc chỉ thực hiện những dự án nhỏ như vậy. Những “đàn anh” cho rằng Tôi đã thực hiện quá nhiều dự án khác nhau và mất đi sự tập trung. Điều này là không cần thiết và lãng phí thời gian. Tuy nhiên, Tôi vẫn bảo lưu cách tiếp cận của mình vì Tôi đã có những cái nhìn về những dự án lớn ấp ủ từ những ý tưởng nhỏ như vậy. Chỉ là hiện tại, phòng lab và nhân sự, tài chính của Tôi chưa đủ để hiện thực những điều ấy. Tôi vẫn theo đuổi các ý tưởng nghiên cứu nhỏ của mình, Tôi hiểu rằng những nghiên cứu này chưa phải là mục tiêu cuối cùng của khoa học, nó giúp Tôi nuôi dưỡng ý tưởng, sự tự do và tính sáng tạo trong khoa học.
Điều quan trọng là chúng ta vẫn được học từ những điều nhỏ nhặt.
Tác giả: Zheng Li
Lược dịch: Lê Văn Trình
Link bài gốc: https://www.science.org/content/article/how-i-learned-high-impact-projects-aren-t-only-route-academic-success
-
THÊM THÀNH VIÊN CỦA PTN HOÀN THÀNH LUẬN ÁN
Thạc sĩ Lê Văn Trình, nghiên cứu viên của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc vừa hoàn tất chương trình đạo tạo bậc Tiến sĩ khi bảo vệ thành công LATS cấp cơ sở đào tạo vào sáng ngày 11/8/2023.
-
THIẾU NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG HỖ TRỢ SINH SẢN
CN. Trịnh Thị Cẩm Trân, PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc
Lược dịch: Technology Quarterly section of the print edition under the headline “Conception, reconceived”: Lack of basic research has hampered assisted reproduction
Hàng chục triệu phôi người đã được tạo ra trong các phòng thí nghiệm trong nửa thế kỷ qua. Làm sao một tế bào phôi đơn lẻ phát triển thành một con người? Các cơ chế cơ bản chi phối cách một sự sống mới của con người hình thành dựa trên nền tảng tế bào, phân tử và di truyền của sinh học sinh sản và lý do gây vô sinh của con người phần lớn là chưa được biết rõ.
Có nhiều lý do dẫn đến việc thiếu nghiên cứu cơ bản về sinh học sinh sản. Kể từ năm 1996, Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH), cơ quan tài trợ lớn nhất cho nghiên cứu y sinh trên thế giới, đã bị pháp luật cấm chi tiền cho các nghiên cứu về phôi người nếu các phôi này chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu hoặc bị tiêu hủy. Không giống như bệnh ung thư vốn thu hút một lượng lớn tài trợ nghiên cứu, vô sinh không phải là một tình trạng đe dọa đến tính mạng. Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã không công nhận vô sinh là một căn bệnh cho đến năm 2017. Các công ty dược phẩm cũng không ‘hào hứng’ để nghiên cứu giải quyết vấn đề này.
Sau nhiều nỗ lực, ngành Hỗ trợ sinh sản (HTSS) đã đạt được được một số thành tựu, tỉ lệ thành công xấp xỉ 50% số ca điều trị. Điều này làm cho việc tìm kiếm các phương án thay thế lại càng ít cấp bách hơn. Do đó, những bệnh nhân vô sinh chưa rõ nguyên nhân được điều trị bằng những kỹ thuật HTSS vốn được thiết kế cho nhóm đối tượng có bất thường về sinh lý, và bị phớt lờ nguyên nhân. Một hạn chế khác của nghiên cứu cơ bản trong kỹ thuật HTSS là sự khác biệt về cách tiếp cận. Các kỹ thuật HTSS đã và đang được hoàn thiện dần chỉ nhờ vào việc lặp lại các quy trình để quan sát việc thay đổi các điều kiện thực hiện của phương pháp tạo ra phôi khả thi thay vì những nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế hoạt động, do đó vẫn chưa giải thích được cách phôi được tạo ra.
Nghiên cứu cơ bản về tế bào gốc mang lại kỳ vọng có thể tạo ra trứng và tinh trùng (in vitro gametogenesis-IVG) cung cấp cho phòng thí nghiệm nghiên cứu thay vì phụ thuộc vào người cho rất khắt khe hiện nay. Những hiểu biết sâu sắc từ việc theo dõi và kiểm soát quá trình sản xuất trứng và tinh trùng sẽ rất hữu ích cho ¼ trường hợp vô sinh do không sản xuất giao tử. Những nghiên cứu này kỳ vọng sẽ trả lời được nhiều câu hỏi như “phôi gây sảy thai, bệnh bẩm sinh được hình thành như thế nào?..”
Việc nuôi cấy trong phòng thí nghiệm có thể không phải là vấn đề mà các câu hỏi đạo đức mới là một phần không thể bỏ qua của quá trình hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên những tiến bộ như vậy có thể tạo ra những khả năng mới cho các bậc cha mẹ đồng giới và chuyển giới, đồng thời tái thiết lập khả năng sinh học cho phụ nữ vô sinh. Niềm vui làm cha mẹ mà HTSS đã mang lại cho hàng triệu người có thể được lan tỏa hơn nữa. Nỗi đau của một chu kỳ IVF thất bại chắc chắn sẽ vẫn còn đó, nhưng sẽ ít người cảm nhận được điều đó hơn. Và sẽ có ít người hơn cuối cùng phải chọn ngừng cố gắng một cách lặng lẽ, không thể nguôi ngoai, thì đó thực sự là một sự tiến bộ.
Chúc mừng ngày Chuyên viên phôi học thế giới 25 tháng 7