Category: Tin PTN Tế bào gốc

  • Sự hỗ trợ các tế bào mầm bởi các tế bào giống tế bào Sertoli phôi tạo nên từ tế bào da

    Vai trò chính của tế bào Sertoli trưởng thành là cung cấp chất dinh dưỡng và hỗ trợ cho sự phát triển của tế bào gốc

    Hơn nữa, tế bào Sertoli đã được chứng minh là có chứa chất dinh dưỡng, được dùng để bảo vệ những mảnh ghép tế bào không phải tế bào tinh hoàn trong cấy ghép. Tuy nhiên, tế bào Sertoli trưởng thành ở trạng thái không phân chia và những tế bào Sertoli chưa trưởng thành sơ cấp trong suốt quá trình nuôi cấy kéo dài lại thoái hóa trong đĩa petri. Vì thế, việc tìm ra một nguồn thay thế cho những tế bào này không phụ thuộc vào tế bào tinh hoàn cho là một hướng mới hấp dẫn cho cả nghiên cứu cơ bản và ứng dụng điều trị.

    “Ý tưởng là nếu bạn có thể làm ra tế bào Sertoli từ tế bào da, chúng có thể dễ dàng hỗ trợ cho quá trình sinh tinh khi hướng đến các thí nghiệm thụ tinh in vitro hay bảo vệ các dạng tế bào khác chẳng hạn tế bào thần kinh khi đồng nuôi cấy in vivo”, thành viên của nhóm nghiên cứu ở viện Whitehead Rudolf Jaenisch nói. “Trong khi đó, bạn chỉ có thể lấy các tế bào đang tăng sinh từ tinh hoàn của thai”

    Các nhà nghiên cứu ở PTN Jaenisch có vẻ như đã vượt qua được những trở ngại về nguồn cung cấp và chu kì sống thông qua sự chuyển biệt hóa, quá trình tái thiết lập chương trình một tế bào trực tiếp từ một dạng tế bào trưởng thành thành một dạng khác mà không cần đưa tế bào trở về dạng tế bào gốc phôi. Không giống với các phương pháp tái thiết lập chương trình khác có thể tạo nên tế bào gốc vạn năng cảm ứng (iPSC), sự chuyển biệt hóa không phụ thuộc vào việc sử dụng các gen có thể gây ra ung thư.
    Như đã công bố trên tạp chí Cell Stem Cell vào tháng 9, các nhà khoa học đã chuyển biệt hóa tế bào da chuột thành tế bào giống Sertoli phôi bằng cách chia quá trình thực hiện thành 2 bước chính, bắt chước sự phát triển của tế bào Sertoli trong tinh hoàn. Bước đầu tiên là biến đổi nguyên bào sợi da từ trạng thái trung mô sang biểu mô dạng phiến (tấm/lá). Trong bước 2, tế bào thu được phải có khả năng bám dính với nhau thành một dạng hợp nhất như thấy trong in vivo giữa tế bào mầm và tế bào Sertoli phôi.

    Kế tiếp, các nhà khoa học bố trí một hỗn hợp 5 nhân tố phiên mã để hoạt hóa chương trình gen tế bào Sertoli phôi có dạng biểu mô. Các tế bào thu được biểu hiện nhiều đặc trưng của tế bào Sertoli phôi, bao gồm sự tập trung tạo thành cấu trúc ống tương tự ống sinh tinh tìm thấy trong tinh hoàn, và tiết các nhân tố đặc trưng của tế bào Sertoli. Khi tiêm những tế bào này vào tinh hoàn thai chuột, các tế bào chuyển biệt hóa đã di chuyển vào vị trí riêng và sát nhập vào ống nội sinh. Hơn hết, các tế bào được tiêm biểu hiện giống như các tế bào Sertoli phôi nội sinh, dù biểu hiện vài gen khác biệt.

    “Những tế bào chuyển biệt hóa được tiêm vào tương tác khá gần với các tế bào mầm tự nhiên, chỉ ra rằng chúng chắc chắn không có tác động xấu nào lên tế bào mầm”, Yossi Buganim, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ ở PTN Jaenisch và là tác giả chính của bài báo trên, nói “Nói cách khác, chúng có thể làm cho các tế bào mầm sống sót”

    Sự thật là, khi các tế bào giống tế bào Sertoli phôi được sử dụng để duy trì các tế bào khác trong đĩa petri, Buganim chú ý rằng các tế bào được hỗ trợ bởi các tế bào chuyển dạng phát triển mạnh, sống lâu hơn các tế bào được duy trì bởi các tế bào Sertoli tự nhiên thật sự.

    Được khuyến khích bởi những kết quả in vitro này, Buganim nói rằng anh ấy sẽ nghiên cứu các tế bào giống Sertoli phôi có giữ lại được khả năng hỗ trợ nâng coa này sau khi cấy ghép vào não hay không, nơi các tế bào có thể duy trì tế bào thần kinh yếu. Nếu như vậy, chúng có thể được ứng dụng trong liệu pháp dựa trên sự phát triển của tế bào thần kinh cho sự giảm chức năng thần kinh chẳng hạn ALS và bệnh Parkinson.

    Mỹ Hậu (Nghiên cứu viên PTN Tế bào gốc)

    halam132676@gmail.com

  • Công nghệ hỗ trợ sinh sản và các dị tật bẩm sinh

    So với trẻ được sinh theo phương pháp tự nhiên, những trẻ ra đời với sự hỗ trợ của công nghệ sinh sản (ART) có nguy cơ mắc một số khuyết tật về tim, hở môi và đường tiêu hóa cao hơn từ 2-4 lần. Đây là kết luận được công bố của Trung tâm nghiên cứu kiểm soát dịch bệnh (CDC).

    ART, trong đó bao gồm thụ tinh trong ống nghiệm, một kỹ thuật thu trứng của người phụ nữ kết hợp với tinh trùng trong phòng thí nghiệm, và chuyển lại cơ thể mẹ hoặc được hiến tặng cho một phụ nữ khác.

    “Ngày nay, khoảng một phần trăm trẻ sơ sinh ra đời nhờ ART, và con số này sẽ tiếp tục tăng. Rủi ro dù có nhưng rất thấp, ART vẫn khiến các bậc cha mẹ phải xem xét khi dùng công nghệ này vì những tiềm năng và lợi ích mà ART mang lại “Jennita Reefhuis, một nhà dịch tễ học tại Trung tâm quốc gia của CDC về dị tật bẩm sinh và các khuyết tật, cho biết trong một thông cáo báo chí của cơ quan.

    Các nhà nghiên cứu đã so sánh dữ liệu từ 281 ca ART và 14.095 ca sinh tự nhiên. Các kết quả trong một ca sinh duy nhất cho thấy, ART tăng hai lần nguy cơ gặp phải một số loại khuyết tật tim, hơn hai lần nguy cơ sứt môi có hay không có hở hàm ếch, và hơn bốn lần nguy cơ khuyết tật đường tiêu hóa.

    Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng nguy cơ mắc phải dị tật bẩm sinh ở trẻ ART vẫn thấp. Ví dụ, sứt môi có hoặc không có vòm miệng xảy ra chỉ 1/950 ca sinh, có nghĩa tỷ lệ này ở những trẻ ART chỉ là 1/425 ca sinh..

    ART không làm tăng đáng kể nguy cơ dị tật bẩm sinh trong những ca đa thai. Tuy nhiên, ART có tác động gián tiếp, bởi vì nó làm tăng khả năng sinh đôi, một yếu tố làm tăng nguy cơ xuất hiện nhiều loại dị tật bẩm sinh. Các nhà khoa học đề nghị mở rộng nghiên cứu để xác định ART có liên quan đến các khuyết tật trong những ca đa thai hay không.

    ART đã phổ biến ở Hoa Kỳ từ những năm 1980, và số lượng trẻ sinh ra nhờ ART tăng gấp đôi từ năm 1996-2004. Năm 2002, khoảng 12% phụ nữ Mỹ trong độ tuổi từ 15 đến 44 sử dụng các dịch vụ về hỗ trợ sinh sản. Trong năm 2005, hơn 134.000 ca ART được thực hiện tại Hoa Kỳ, với sự ra đời của khoảng 52.000 trẻ sơ sinh, CDC cho biết.

    Thúy Oanh (nghiên cứu viên PTN Tế bào gốc)

    htoanh@hcmus.edu.vn

  • Tạo thành công tai người từ tế bào bệnh nhân

    Tạo thành công tai người từ tế bào bệnh nhân

    Một nhóm nghiên cứu bệnh viện Massachusetts – Mỹ đã sử dụng tế bào con người tạo thành công tai người trong phòng thí nghiệm.

    Khác với các tai nhân tạo khác, loại tai này có hình dáng và cảm giác giống hệt tai người, và sẽ được ứng dụng trong y học dùng để thay thế cho những thưong binh bị mất hoặc hỏng tai do chiến tranh.

    tai_nguoi

    Khuôn và mô hình tai.

    Cụ thể, các nhà nghiên cứu sẽ tạo ra mô hình cái tai hoàn chỉnh của bệnh nhân trên máy tính, rồi căn cứ theo các thông số kỹ thuật của cái tai, sử dụng kim loại titan có collagen bao phủ chế tạo thành khuôn tai. Sau đó, họ dùng xương sụn ở mũi hoặc ở xương sườn để cấy vào khuôn tai đó.

    Sau hai tuần, khuôn tai sẽ được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, đến khi khuôn tai đó hình thành đủ xương sụn. Khi cái tai nuôi cấy hoàn thành có thể dùng để cấy ghép, các nhà khoa học sẽ lấy mẫu da trên người bệnh để cấy da cho tai, sau đó ghép tai đó vào người bệnh.

    Được biết, các nhà khoa học đã nuôi cấy thành công “tai người”. Để có thêm phát hiện mới, họ đã đưa tai đó cấy ghép lên chuột thí nghiệm.

    Hiện tại, họ đang chuẩn bị xin Cục quản lý thực dược phẩm để có thể bắt đầu cấy ghép tai cho bệnh nhân bằng cái tai được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm này để có thể tiến hành vào năm 2013

    Bích Ngọc (PTN Tế bào gốc – ĐH Khoa học Tự nhiên)

    vbngoc@hcmus.edu.vn

    Theo Đất Việt

  • Triển vọng của thuốc tránh thai nam

    Một nghiên cứu trên chuột đã được đăng tải trên Tạp chí Cell cho thấy các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một loại thuốc (không chứa hormone) có triển vọng để điều chế thuốc tránh thai cho nam trong tương lai không xa.
    Hợp chất này ức chế sự sản xuất tinh trùng của chuột đực, nhưng không ảnh hưởng đến khả năng sinh hoạt tình dục. Khi ngưng điều trị thuốc, chuột đực phục hồi khả năng sản xuất tinh trùng như cũ, cũng như khả năng di chuyển của t

    inh trùng, làm cải thiện hiệu quả thụ tinh, và có thể làm cha những chuột con khoẻ mạnh, trường nhóm nghiên cứu James Bradner của Viện Ung Thư Dana-Farber đã cho biết.
    Các thuốc tránh thai cho nam giới trước đây gặp những hạn chế bởi vì khi vào máu, nó không thể vượt qua được hàng rào tinh hoàn để ức chế tế bào sinh tinh. Các biện pháp tránh thai cho nam ít nhiều cũng đã góp phần làm tăng tỷ lệ của việc có thai ngoài ý muốn. Mặc dù có những hạn chế, nhưng gần 1/3 cặp vợ chồng vẫn tin vào phương pháp kiềm soát sinh sản của nam giới.

    Hợp chất sử dụng trong nghiên cứu nói trên có tên JQ1. Phân tử này tấn công nhằm vào protein BRDT, một protein cần thiết cho sự sản xuất tinh trùng ở tinh hoàn. Đối với những con chuột được thử nghiệm với phân tử JQ1, tinh trùng sản xuất ít hơn và khả năng bơi của tinh trùng cũng giảm. 

    Các nghiên cứu về giao phối cho thấy JQ1 thực sự hoạt động như một biện pháp tránh thai hiệu quả. Thậm chí rất tốt vì không có ảnh hưởng xấu đến mức testosterone hoặc tập quán của động vật, và có thể phục hồi khả năng sinh tinh sau khi ngưng sử dụng thuốc. Các phân tử nhỏ đi kèm không gây tác dụng phụ rõ ràng với con của các con đực.

    Không có một phương pháp tránh thai hồi phục dành cho nam từ khi bao cao su ra đời vào thế kỷ trước, William Bremner từ Đại học Washington, Seattle lưu ý, trong một bài bình luận đi kèm cho biết như vậy, trong đó ông đề cập Matzuk và phương pháp tránh thai của Bradner là một bước đột phá.

    “Chúng tôi hình dung những khám phá của chúng tôi hoàn toàn có ý nghĩa với nam giới, mở ra một chương mới và cung cấp chiến lược hiệu quả về biện pháp tránh thai ở nam”, các nhà nghiên cứu đã viết. Trên cơ sở mức độ bảo tồn cao protein BRDT giữa người và chuột, việc phát triển JQ1 thành thành thuốc tránh thai nam là có thể. 

    Thúy Oanh – Trường Sinh (cán bộ nghiên cứu PTN Tế bào gốc – ĐH Khoa học Tự nhiên)

    htoanh@hcmus.edu.vn

     

  • Phát hiện gene gây bệnh Alzheimer

    Một nhóm các nhà khoa học từ Đại học Rochester, Đại học Nam California và các viện khác đã tìm ra một gen gọi là ApoE4, làm cho người ta dễ phát triển bênh Alzheimer. Những người mang 2 bản sao của gen có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 8-10 lần những người không có. Các công trình nghiên cứu này cho thấy ApoE4 hoạt động thông qua cyclophilin A, một nhân tố thường được biết đến có hại trong hệ thống tim mạch, gây viêm trong xơ vữa động mạch và các điều kiện khác. Bài báo cho rằng, sự hiện diện của ApoE4 sẽ làm tăng cyclophilin A, dẫn theo một loạt các tín hiệu phân tử như phân tử gây viêm NF kappa B, MMPs… gây ra sự phá vỡ hàng rào tế bào mạch máu với cách thức tương tự trong các bệnh tim mạch hay phình động mạch bụng. Các mạch máu trong não bị rò rỉ cho phép các chất độc hại đổ vào mô não với lượng lớn. Và khi có sự gián đoạn bất kỳ trong chuỗi tín hiệu, khi ApoE4 không được biểu hiện, cyclophilin A bị khóa hay bị tắt, hay NF kappa B hay MMPs bị ức chế, hàng rào máu não được phục hồi, lưu lượng máu trở lại bình thường các các chất độc không len vào các mô não được nữa.

    Tham khảo chi tiết tại: http://www.sciencedaily.com/releases/2012/05/120516140016.htm

    Mỹ Hậu

  • Quả óc chó cải thiện khả năng sinh sản ở nam giới

    Được công bố trên tạp chí sinh sản tháng 8 năm 2012, một nghiên cứu mới mang tính đột phá của trường đại học UCLA cho thấy việc bổ sung khoảng 2 nắm quả óc chó vào thực đơn mỗi ngày có thể cải thiện khả năng sinh sản của nam giới.

    Đây là nghiên cứu đầu tiên khảo sát tác động của omega-3 đối với tinh trùng. Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian 12 tuần trên 117 người đàn ông thuộc độ tuổi từ 21 đến 35. Các tình nguyện viên được chia thành hai nhóm. Một nhóm bổ sung 75 gram quả óc chó vào chế độ ăn uống hàng ngày, nhóm còn lại tiếp tục chế độ ăn uống thông thường và không bổ sung các loại hạt khác.

    Các nhà nghiên cứu đã xem xét mật độ tinh trùng, sức sống, khả năng di chuyển, hình dạng, kích thước và bất thường nhiễm sắc thể. Kết quả cho thấy có một sự cải thiện đáng kể về các thông số đánh giá tinh trùng ở nhóm người bổ sung hạt óc chó vào khẩu phần ăn, nhóm còn lại không thay đổi.

    Nghiên cứu này cho thấy khẩu phần ăn của phụ nữ và đàn ông đều cần được chú ý trong mọi cố gắng mang thai. Thực phẩm ảnh hưởng đến sự sinh sản thành công của con người trong lịch sử, tuy nhiên các thói quen ăn uống và các chất dinh dưỡng cần thiết nhằm thúc đẩy sự sinh sản chỉ được xác định ở phụ nữ, các thói quen và các chất dinh dưỡng có thể cái thiện khả năng sinh sản ở nam giới vẫn chưa rõ ràng.

    Quả óc chó là nguồn cung cấp dồi dào acid linolenic, một nguồn omega-3 tự nhiên từ thực vật. Nhiều nghiên cứu cho thấy những chất này đóng vai trò quan trọng trong sự trưởng thành của tinh trùng và chức năng của màng tế bào.

    Các nghiên cứu sâu hơn vẫn đang được tiến hành nhằm kết luận lượng omega-3 cần thiết dựa trên một chế độ ăn uống lành mạnh và đa dạng cho nam giới.

    SOURCES:

    Wendie Robbins, PhD, UCLA Fielding School of Public Health.

    John Petrozza, MD, director of the Massachusetts General Hospital Fertility Center, Boston.

    Robbins, R. Biology of Reproduction, published online Aug. 15, 2012.

    Attaman, J. Human Reproduction, May 2012.

    Vyan

  • Welcome Trust và MRC đầu tư Viện Tế bào gốc tầm cỡ thế giới

    Hai nhà đầu tư lớn nhất về nghiên cứu y học tại Anh là Welcome Trust và MRC đã cùng đầu tư xây dựng Viện Nghiên cứu tế bào gốc tầm cỡ thế giới; với mức đầu tư lên đến 8 triệu bảng Anh. Họ mong muốn đây là viện hàng đầu thế giới về nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc.

    Viện mới này sẽ đặt tại Đại học Cambrigde với 30 nhóm nghiên cứu về ba hướng chính trong tế bào gốc là tế bào gốc phôi, tế bào gốc trưởng thành và tế bào vạn năng cảm ứng (iPS).

    austin_smith_with_new_sign_08-08-2012_small

    GS. Austin Smith – Giám đốc Viện

    Giáo sư Austin Smith là Giám đốc viện này. Ông cho hay “Mục tiêu của chúng tôi là làm mất đi tranh giới và khoảng cách giữa nghiên cứu cơ bản và các ứng dụng lâm sàng tế bào gốc. Với cơ sở vật chất hiện đại tầm cỡ thế giới, viện sẽ thu hút trí lực quốc tế trong lĩnh vực này để thực hiện mục tiêu của chúng tôi”.

    PVP

     

  • Điều trị ung thư bằng hướng tiếp cận Epigenetics

    Jay Bradner, nhà nghiên cứu hóa học và cũng là một bác sĩ tại Viện Ung thư Dana-Farber ở Boston cho rằng hướng tiếp cận tiêu diệt tế bào ung thư trong tương lai sẽ tập trung vào Epigenetics hay còn gọi là ngoại di truyền. DNA là khuôn mẫu của tất cả sự biểu hiện gen ở tế bào. Ngoài ra, một nguyên nhân khác dẫn đến sự thay đổi biểu hiện gen ngày càng được chú ý bởi các nhà khoa học chính là sự thay đổi cấu trúc trên nhiễm sắc thể và các protein liên quan đến việc đóng gói các nhiễm sắc thể này. Hiện tượng đó được gọi là Epigenetics.

    Các nghiên cứu trong vòng 10 năm trở lại đây cho thấy sự điều hòa bất thường của Epigenetics là một nguyên nhân dẫn đến ung thư. Bradner mong muốn tạo ra các loại thuốc có thể điều chỉnh lại quá trình điều hòa Epigenetics trong tế bào, từ đó dẫn đến việc điều trị ung thư.

    Tìm hiểu chi tiết tại link: http://www.nature.com/news/cancer-research-open-ambition-1.11136?WT.mc_id=FBK_NPG

    Jay Bradner (nature.com)

    Ngoài ra, Jay Bradner còn tham gia báo cáo tại hội nghị TEDx, trong báo cáo này, Bradner trình bày về nghiên cứu biệt dược mới của mình.

    Tìm hiểu chi tiết tại link: http://www.youtube.com/watch?v=70ua-1e9YN0

    Gia Khue

  • Cancer stem cells tracked

    Lần đầu tiên, các nhà khoa học có thể theo dõi sự tiến triển của khối u từ một tế bào gốc ung thư duy nhất. Nghiên cứu trên được công bố trên Nature.com vào ngày 01/08/2012.

    Theo hình ảnh, khối u ung thư da đã tiến triển từ một tế bào gốc ung thư được đánh dấu màu đỏ

    Chi tiết theo dõi tại website: http://www.nature.com/news/cancer-stem-cells-tracked-1.11087?WT.mc_id=FBK_NPG

    Gia Khuê

  • Vaccine hy vọng cho ung thư vú

    Vaccine hy vọng cho ung thư vú

    Các nhà khoa học đã phát triển một loại vaccine chống ung thư làm giảm hơn 80% kích
    thước khối u ung thư vú khi được kiểm tra trên chuột trong phòng thí nghiệm.

    Vaccine này hoạt động bằng cách kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể để nhận
    biết một loại phân tử đường đơn lộ ra bên ngoài bề mặt của các tế bào ung thư. Sau đó,
    hệ thống miễn dịch sẽ tấn công khối u, để lại những khối mô khỏe mạnh không bị tổn
    thương.

    Hơn nữa, những xét nghiệm trên động vật sẽ cần thiết trước khi vaccine có thể được thử
    nghiệm trên người. Nghiên cứu tại Đại học Georgia, được công bố trên Kỷ yếu của Viện
    Hàn lâm Khoa học Quốc Gia.

    Nguyễn Thị Kiều Oanh

    Cán bộ nghiên cứu PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc

    (gaumeoadi@gmail.com)