Author: tcnhat

  • Nhóm Y HỌC TÁI TẠO

    Nhóm Y HỌC TÁI TẠO

    Nhom_Y_hoc_Tai_Tao_resize

    Nhóm Y học tái tạo (năm 2013). Từ trái sang: Bùi Nguyễn Tú Anh, Lâm Thái Thành, Phạm Minh Vương, Nguyễn Hải Nam, Vũ Bích Ngọc, Phí Thị Lan, Đặng Thị Tùng Loan, Phan Kim Ngọc (Trưởng nhóm), Phạm Lê Bửu Trúc, Trương Hải Nhung, Lê Thị Mỹ Phước, Nguyễn Thùy Linh, Nguyễn Thái Quỳnh Anh, Trương Thị Hoàng Mai, Trịnh Ngọc Lê Vân, Lê Minh Dũng, Phạm Văn Phúc

    I. THÀNH VIÊN NHÓM

    Trưởng nhóm

    ThS.GVC. PHAN KIM NGỌC

    Email: pkngoc@hcmus.edu.vn

    Điện thoại: 0908133709

    Lí lịch khoa học

    27_thayngoc
    Thành viên nhóm:

    TS.GV. Phạm Văn Phúc

    Lí lịch khoa học

    phuc

    ThS. NCS. Phạm Lê Bửu Trúc

    Lí lịch khoa học

    CTruc

    ThS.NCS. Trương Hải Nhung

    Lí lịch khoa học

    THNhung

    ThS.NCS. Vũ Bích Ngọc

    Lí lịch khoa học

    30_bichngoc

    ThS. Đặng Thị Tùng Loan

    Lí lịch khoa học

    dttloan_tb

    ThS.NCS. Trần Hồng Diễm

    (đang học Tiến sĩ tại Nhật Bản)


    Lí lịch khoa học

    34_hongdiem

    ThS. NCS. Trần Thị Như Mai

    (đang học Tiến sĩ tại Nhật Bản)

    Lí lịch khoa học

    TTNMai_1

    ThS.NCS. Mai Thị Trang

    (đang học Tiến sĩ tại Pháp)

    Lí lịch khoa học

    13_maithitrang

    ThS. NCS. Dương Thanh Thuỷ

    (đang học Tiến sĩ tại Đức)

    Lí lịch khoa học

    41_thanhthuy

    ThS.NCS. Dương Thị Thư

    (đang học Tiến sĩ tại Mĩ)

    Lí lịch khoa học

    thu

    HVCH. Nguyễn Thanh Tâm

    Lí lịch khoa học

    12

    ThS. Nguyễn Thái Quỳnh Anh

    15_quynhanh

    NCS. Nguyễn Gia Khuê

    (đang học Tiến sĩ tại Mĩ)


    Lí lịch khoa học

    Khue

    HVCH. Trịnh Ngọc Lê Vân


    Lí lịch khoa học

    TNLVan

    NCS. Đinh Thị Hồng Nhung

    (đang học Tiến sĩ tại Hàn Quốc)


    Lí lịch khoa học

    DTHNhung_1

    HVCH. Phí Thị Lan


    Lí lịch khoa học

    c_lan

    HVCH. Nguyễn Thị Mỹ Phước

    Lí lịch khoa học

    MPhuoc

    HVCH. Lâm Thái Thành


    Lí lịch khoa học

    TThanh

    HVCH. Nguyễn Thuỳ Linh


    Lí lịch khoa học

    DSCF4416

    Cử nhân. Phạm Minh Vương


    Lí lịch khoa học

    MVuong

    Cử nhân. Bùi Nguyễn Tú Anh


    Lí lịch khoa học

    Tu_Anh

    Cử nhân. Lê Minh Dũng

    Lí lịch khoa học

    MDung

    Cử nhân. Trương Thị Hoàng Mai

    Lí lịch khoa học

    hoang_mai

    HVCH. Trương Châu Nhật

     

    II. HƯỚNG NGHIÊN CỨU

    Hướng nghiên cứu của nhóm:

    – Sinh học tế bào gốc

    – Liệu pháp tế bào gốc

    – Công nghệ mô

     

    III. CÁC ĐỀ TÀI ĐANG TRIỂN KHAI

    1. Nghiên cứu điều trị thực nghiệm bệnh đái tháo đường type 1 và 2 bằng liệu pháp tế bào gốc

    – Chủ nhiệm đề tài: ThS. GVC. Phan Kim Ngọc

    – Cấp quản lí: Đề tài cấp Nhà nước

    – Năm: 2012-2015

    2. Nghiên cứu điều trị bệnh hoại tử chỏm xương đùi bằng liệu pháp tế bào gốc

    – Chủ nhiệm đề tài: TS.BV. Phạm Văn Phúc; TS.BS. Bùi Hồng Thiên Khanh

    – Cấp quản lí: Đề tài TĐ ĐHQG, đề tài loại B

    – Năm 2013-2015

    3. Nghiên cứu điều trị bệnh xơ gan bằng liệu pháp tế bào gốc

    – Chủ nhiệm đề tài: ThS.NCS. Trương Hải Nhung

    – Cấp quản lí: Đề tài TĐ ĐHQG, đề tài loại C

    – Năm 2011-2013

    4. Nghiên cứu điều trị bệnh suy tim bằng liệu pháp tế bào gốc

    – Chủ nhiệm đề tài: ThS.NCS. Phạm Lê Bửu Trúc

    – Cấp quản lí: Đề tài TĐ ĐHQG, đề tài loại C

    – Năm 2011-2013

     

    IV. CÁC KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

    • 1. Phuc PV, Nhung TH, Loan DT, Chung DC, Ngoc PK. Differentiating of banked human umbilical cord blood-derived mesenchymal stem cells into insulin-secreting cells. In Vitro Cell Dev Biol Anim. (2011) 47:54-63.
    • 2. Ngoc PK, Phuc PV, Nhung TH, Thuy DT, Nguyet NT. Improving the efficacy of type 1 diabetes therapy by transplantation of immunoisolated insulin-producing cells. Hum Cell. (2011) 24(2):86-95.
    • 3. Phuc Pham Van (2011). Stem Cell Therapy for Islet Regeneration, Stem Cells in Clinic and Research, Ali Gholamrezanezhad (Ed.), ISBN: 978-953-307-797-0, InTech.
    • 4. Pham Van Phuc and Phan Kim Ngoc (2012). Improving the efficacy of diabetes mellitus treatment by combining cell replacement therapy with immune correction, Stem cells and Cancer Stem Cells, Vol 4, Hayat, M.A. (Ed.), ISBN 978-94-007-2827-1, Springer.
    • 5. Phuc Pham Van, Khanh Bui-Hong-Thien, Dat Ngo-Quoc, Lam Khuat-Tan, and Ngoc Phan-Kim (2013). Transplantation of non-expanded adipose stromal vascular fraction and platelet rich plasma for articular cartilage injury treatment in mice model. Journal of Medical Engineering, 2013, 832396.
    • 6. Phuc V Pham, Khanh HT Bui, Dat Q Ngo, Ngoc B Vu, Nhung H Truong, Nhan LC Phan, Dung M Le, Triet D Duong, Thanh D Nguyen, Vien T Le and Ngoc K Phan (2013). Activated platelet-rich plasma improves adipose-derived stem cell transplantation efficiency in injured articular cartilage. Stem Cell Research & Therapy. MS : 1221358047995202.
    • 7. Phuc Van Pham, Khanh Hong Thien Bui, Dat Quoc Ngo, Ngoc Bich Vu, Ngoc Kim Phan (2013). Expanded adipose tissue-derived stem cells for articular cartilage injury treatment: a safety and efficacy evaluation. IN: Regenerative medicine using redundant abdominal fat and menstrual blood. Niranjan Bhattacharya, Phillip Stubblefield (eds.), Springer Verlag (In press – expected publication date: September 2013).
    • 8. Phuc Van Pham, Loan Thi-Tung Dang, Nhung Hai Truong, Ngoc Kim Phan (2012). Can activated platelet rich plasma combined with adipose-derived stem cells be used to treat skin wrinkle? A mechanism study. Medical Advancement in Aging and Regenerative Technologies: Clinical Tools and Applications; Edited by Andriani Daskalaki. IGI Global Publisher. DOI: 10.4018/978-1-4666-2506-8, ISBN13: 9781466625068.
    • 9. Phuc V Pham, Khanh HT Bui, Dat Q Ngo, Ngoc B Vu, Nhung H Truong, Nhan LC Phan, Dung M Le, Triet D Duong, Thanh D Nguyen, Vien T Le and Ngoc K Phan (2013). Activated platelet-rich plasma improves adipose-derived stem cell transplantation efficiency in injured articular cartilage. Stem Cell Research & Therapy. 2013, 4:91
  • Ung thư “không bị thuốc tác động” có thể tác động bằng thuốc sau khi áp dụng một liệu pháp mới.

    Ung thư “không bị thuốc tác động” có thể tác động bằng thuốc sau khi áp dụng một liệu pháp mới.

    Các nhà nghiên cứu của Viện tế bào gốc Harvard (HSCI) đã xác định trong các dạng ung thư ác tính nhất, một gen có vai trò trong việc điều hòa tính tự làm mới của tế bào gốc phôi, khởi đầu sự tìm kiếm một loại thuốc có thể ngăn chặn hoạt động của gen đó.

    Gen SALL4 cung cấp cho các tế bào gốc khả năng phân chia liên tục thay vì biệt hóa thành các tế bào trưởng thành. Thông thường, các tế bào chỉ thể hiện SALL4 trong quá trình phát triển phôi, nhưng các gen được tái biểu hiện trong hầu hết các trường hợp bệnh bạch cầu dòng tủy cấp và 10 – 30% ung thư gan, phổi, dạ dày, buồng trứng, nội mạc tử cung, và ung thư vú, cho thấy SALL4 giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành khối u.

    Trong bài báo được xuất bản trên tờ New England Journal of Medicine, hai phòng thí nghiệm trực thuộc HSCI – một ở Singapore và một ở Boston – cho thấy việc “knock out” các gen SALL4 trong các khối u gan chuột, hoặc can thiệp vào hoạt động của các sản phẩm protein của nó với một chất ức chế nhỏ, điều trị các bệnh ung thư.

    dt

    Ông Daniel Tenen, chủ nhiệm Chương trình các bệnh về máu của HSCI, cũng là người đứng đầu một phòng thí nghiệm tại Viện Khoa học ung thư của Singapore (CSI Singapore) nói “Báo cáo của chúng tôi là về bệnh ung thư gan, nhưng nó cũng có khả năng đúng về bệnh ung thư phổi, ung thư vú, ung thư buồng trứng, nhiều người, nhiều bệnh ung thư. SALL4 là một marker, vì vậy nếu chúng ta có một loại thuốc phân tử nhỏ ngăn chặn chức năng của SALL4, chúng ta cũng có thể dự đoán được đáp ứng của bệnh nhân.”

    Nghiên cứu khả năng điều trị của một yếu tố phiên mã là điều bất thường trong lĩnh vực nghiên cứu ung thư. Yếu tố phiên mã thường bị loại ra vì khó khăn trong việc phát triển các loại thuốc can thiệp an toàn không tác động đến di truyền. Hầu hết các nhà nghiên cứu ung thư tập trung sự chú ý vào các kinase.

    Tuy nhiên, yêu cầu của các nhà nghiên cứu HSCI vào sinh học cơ bản của gen SALL4 tiết lộ một cách khác để can thiệp vào hoạt động của nó trong tế bào ung thư. Sản phẩm protein của gen chịu trách nhiệm làm ngừng một gen ức chế khối u, làm cho các tế bào phân chia không kiểm soát được. Với việc sử dụng kiến ​​thức này, các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng protein mục tiêu SALL4 với các phân tử giống thuốc có thể ngăn chặn sự phát triển khối u.

    Đầu năm nay, đồng tác giả của Tenen, Li Chai giảng viên liên kết của HSCI, một phó giáo sư trường Y Đại học Harvard về bệnh lý tại Bệnh viện Brigham và Phụ nữ, xuất bản một bài báo trong tạp chí Blood, báo cáo rằng một chất ức chế SALL4 có tiềm năng điều trị tương tự như trong các tế bào bạch cầu.

    GS. Chai đã thu mẫu máu của các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu dòng tủy cấp, xử lý các tế bào bạch cầu với các chất ức chế can thiệp vào hoạt động protein SALL4, và sau đó cấy máu vào chuột. Kết quả là có một sự suy thoái dần của các bệnh ung thư tương tự ở chuột. Ông cũng cho biết “Tôi vui mừng về thành công đầu tiên của sự phát triển loại thuốc mới này. Là một bác sĩ, một nhà khoa học, nếu tôi có thể tìm thấy một loại thuốc mới có độc tính thấp cho các mô bình thường thì bệnh nhân của tôi có thể có một chất lượng cuộc sống tốt hơn.”

    Chai và Tenen bây giờ đang làm việc với Lee Rubin Thành viên Ban Chấp hành HSCI, Viện Harvard Hóa học và Sinh học tế bào, và James Bradner của Viện Ung thư Dana-Farber, một giảng viên liên kết của HSCI, để vượt qua những thách thức kỹ thuật trong việc phát triển thuốc và chứng minh tiềm năng của SALL4 can thiệp để điều trị các dạng ung thư khác.

    “Tôi nghĩ rằng với tư cách là viện nghiên cứu, chúng ta nên cộng tác với các công ty dược vì họ có thể làm nhiều điều tốt hơn so với chúng ta” Tenen nói. “Tuy nhiên, cũng là một học giả, tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học quan trọng, không được các công ty dược nghiên cứu – bởi vì nếu chúng ta không làm, ai sẽ làm?”

    Nguyễn Thị Kiều Oanh
    Theo ScienceDaily

     

  • Thông báo gia hạn thời gian cập nhật hồ sơ tuyển chọn sinh viên/ học viên tham gia học tập và nghiên cứu khoa học tại PTN

    ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

    TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC TỰ NHIÊN

    PTN NC & ƯD TẾ BÀO GỐC

    PTN SLH & CNSH ĐỘNG VẬT

    Số: 03/TBG – SV11

    V/v Gia hạn thời gian cập nhật hồ sơ tuyển chọn sinh viên/ học viên tham gia học tập và nghiên cứu khoa học tại PTN

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

     

     

     

    Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21  tháng 8 năm 2013

    THÔNG BÁO

    Trong thời gian từ 20/7/2013 đến 20/8/2013 hệ thống dự tuyển Sinh viên, Học viên cao học, Nghiên cứu sinh trực tuyến đã nhận được đăng kí dự tuyển của hơn 130 hồ sơ, tuy nhiên một số lượng lớn hồ sơ của các ứng viên vẫn chưa được đầy đủ, còn thiếu một trong các mục sau:

    1. Bảng điểm tổng (tính đến học kì mới nhất mà Phòng đào tạo cấp)
    2. Bản ý tưởng nghiên cứu

    Nguyên nhân do một số sinh viên chưa kịp nhận bảng điểm từ Phòng đào tạo, hoặc đính kèm các tập tin không đúng định dạng (hệ thống sẽ tự động loại tập tin không đúng định dạng), do vậy hồ sơ của một số ứng viên vẫn chưa đầy đủ.

    Thông báo này nhằm gia hạn thời gian để các ứng viên đã đăng kí dự tuyển cập nhật các thông tin đầy đủ trước khi xét tuyển vòng hồ sơ. Thời gian gia hạn để các ứng viên cập nhật hồ sơ là 5 ngày:

    Từ ngày 20/8/2013 đến hết ngày 25/8/2013

    Trong thời gian này, đề nghị các ứng viên đã đăng kí dự tuyển nhanh chóng cập nhật hồ sơ, lưu ý:

    –          Bảng điểm tổng (tính đến học kì mới nhất mà Phòng đào tạo có thể cấp), định dạng tập tin .pdf hoặc .rar hoặc .zip, dung lượng không quá 3Mb

    –          Bản đề xuất ý tưởng dựa trên các hướng nghiên cứu trong thông báo số 2, định dạng tập tin .doc, .pdf hoặc .rar hoặc .zip, dung lượng không quá 3Mb

    –          Đơn xin ứng tuyển định dạng tập tin .doc, .pdf hoặc .rar hoặc .zip, dung lượng không quá 3Mb

    Nếu sau thời gian trên, hồ sơ không đầy đủ các yêu cầu sẽ không được xét tuyển trong đợt này mà sẽ được chuyển cho đợt xét tuyển tiếp theo vào năm 2014 (khi đó các ứng viên tiếp tục cập nhật các mục còn thiếu hoặc không hợp lệ).

     

    Lưu ý:  Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ Thầy Phan Lữ Chính Nhân plcnhan@hcmus.edu.vn hoăc cô Huỳnh Thúy Oanh  htoanh@hcmus.edu.vn , tại phòng thí nghiệm Tế bào gốc trường ĐH KHTN, cơ sở 227 Nguyễn Văn Cừ

     

    TM. Lãnh đạo PTN

    Phó trưởng phòng PTN Tế bào gốc

    Trưởng phòng sPTN SLH&CNSH Động vật

     

     

    (đã kí)

     

     

    Phạm Văn Phúc

  • Cách tế bào miễn dịch phát hiện tác nhân xâm nhiễm

    Làm thế nào các tế bào miễn dịch kiểm soát lựa chọn trong một số lượng rất lớn protein tương tự nhau trong cơ thể để phát hiện tác nhân xâm lấn ngoại lai và chiến đấu với tác nhân xâm nhiễm?

    GS vật lý Paul Francois tại đại học McGill cho biết: “Đối với các tế bào miễn dịch, việc lựa chọn các protein ngoại lai giống như việc mò công đáy bể.” Việc hiểu làm thế nào các tế bào miễn dịch giải quyết thử thách kinh khủng này rất quan trọng, vì nó cung cấp sự hiểu biết cốt yếu trong việc tìm hiểu các bệnh thuộc hệ thống miễn dịch, từ bệnh AIDS đến bệnh tự miễn.

    Trong một nghiên cứu được công bố ngày 21 tháng 5 trên tạp chí Physical Review Letters, GS Francois và Jean-Benoit Lalanne đã sử dụng công cụ máy tính để kiểm tra loại hệ thống miễn dịch nào được sử dụng để phát hiện nồng độ thấp các kháng nguyên ngoại sinh (đặc điểm của sự xâm nhiễm tiềm tàng) trong một biển kháng nguyên tự thân hiện diện bình thường trên bề mặt tế bào.

    Sự mô phỏng trên máy tính của các nhà nghiên cứu tiết lộ một giải pháp đơn giản đến ngạc nhiên dựa trên hiện tượng đã biết rõ của sự thích nghi sinh hóa – một cơ chế sinh hóa chung cho phép các sinh vật đối phó với nhiều loại điều kiện môi trường. Để tìm giải pháp, máy tính sử dụng một thuật toán dựa trên thuyết tiến hóa của Darwin. Thuật toán này đã được thiết kế trước đây bởi nhóm nghiên cứu của GS Francois, tạo các mô hình toán học ngẫu nhiên của hệ thống sinh hóa. Sau đó nó tính điểm bằng cách so sánh đặc tính của những hệ thống này với các đặc tính được xác định trước của hệ thống miễn dịch. Các hệ thống có số điểm cao nhất được lặp lại trong lần tiếp theo có biến đổi, và quy trình được lặp lại qua nhiều lần liên tục đến khi các hệ thống đạt đến số điểm lý tưởng. Trong trường hợp này, hầu như tất cả các giải pháp rất giống nhau, cho thấy chúng có cùng cấu trúc và motif chủ chốt.

    21-8

    Các tế bào T của hệ thống miễn dịch phân biệt các phối tử ngoại lai (màu đỏ) và tự thân (màu xanh) bằng việc sử dụng một công cụ sinh hóa nội sinh.

    GS Francois nói: “Hướng tiếp cận của chúng tôi cung cấp một khung giả thiết đơn giản hơn trong việc tìm hiểu điều gì đang diễn ra. Mô hình của chúng tôi có nhiều điểm tương đồng với các hệ thống miễn dịch thực” như việc các tế bào miễn dịch kiểm soát lựa chọn trong một số lượng rất lớn protein của cơ thể để phát hiện tác nhân xâm lấn ngoại lai và khởi động đáp ứng miễn dịch.

    Vũ Thanh Bình
    Theo ScienceDaily

  • Roles of CD44 in stem cells and cancer stem cells

     

    Roles of CD44 in stem cells and cancer stem cells

    Pham, P. (2013). Roles of CD44 in stem cells and cancer stem cells. The Research and Biology of Cancer I. ISBN: . iConcept Press. Retrieved from http://www.iconceptpress.com/books//the-research-and-biology-of-cancer-i/
     

    Phuc Van Pham; Sinh Truong Nguyen; Nhan Lu-Chinh Phan; Ngoc Kim Phan

    Laboratory of Stem Cell Research and Application University of Science Vietnam National University, Ho Chi Minh, Vietnam

     
    The Research and Biology of Cancer I
    Edited by iConcept Press Ltd
    Price
    USD$139 (Hardcover)
    USD$89 (Paperback)
    ISBN
    978-1-922227-22-5 (Hardcover)
       
  • Tiêu diệt khối u não bằng phương pháp miễn dịch

    Nhóm nghiên cứu tại trường đại học Lund ở Thụy điển đã đem lại hy vọng cho các bệnh nhân mắc loại khối u não nghiêm trọng nhất, glioblastoma thể đa hình, khi cho biết có thể chống lại khối u bằng hệ miễn dịch của chính họ. Các khối u thường rất khó loại bỏ hoàn toàn bằng cách phẫu thuật vì tế bào khối u phát triển vào bên trong mô não khỏe mạnh. Bệnh nhân mắc bệnh này thường không thể sống quá một năm sau khi phát hiện khối u.

    19-8

    Hình ảnh khối u lớn xuất hiện ở não khi bệnh nhân mắc glioblastoma.

    Nhóm nghiên cứu đã thử nhiều cách kích thích hệ miễn dịch, đã ức chế khối u bằng một loại “vaccine”. Vaccine này được biến đổi di truyền từ tế bào khối u để có thể sản xuất các phần tử kích thích miễn dịch. Các tế bào khối u đã biến đổi này (được chiếu xạ để mất khả năng phân chia) được kết hợp với một số tiểu phần thuộc hệ miễn dịch của cơ thể. Phương pháp điều trị này đã có những kết quả khả quan trên mô hình động vật: 75% chuột rat trải qua điều trị đã được chữa khỏi hoàn toàn khối u não.

    “Hệ miễn dịch của con người phức tạp hơn, do đó có thể kết quả sẽ không tốt như vậy khi thử nghiệm trên bệnh nhân. Tuy nhiên, với những tiên lượng xấu mà họ phải chấp nhận như hiện nay, mọi phương pháp mới đều quan trọng” – thành viên nhóm nghiên cứu cho biết. Trước đây nhóm đã thử kết hợp hoạt hóa hệ miễn dịch với hóa trị liệu. Khi chất hóa trị được đưa trực tiếp đến khu vực khối u, những kết quả tốt tiếp tục được khẳng định: 83% chuột còn sống.

    Nhóm nghiên cứu mong muốn trong tương lai, phương pháp hóa trị liệu cục bộ có thể kết hợp với phương pháp phẫu thuật để có thể tiêu diệt khối u ở mức cao nhất có thể. Tác giả Peter Siesjo hiện đang xin cấp phép nghiên cứu lâm sàng với liệu pháp kích thích hệ miễn dịch – có hoặc không kết hợp với hóa trị liệu cục bộ – như một phương pháp điều trị bệnh nhân mắc glioblastoma thể đa hình.

    Tham khảo:

    Sara Fritzell, Sofia Eberstål, Emma Sandén, Edward Visse, Anna Darabi, Peter Siesjö. IFNγ in combination with IL-7 enhances immunotherapy in two rat glioma models. Journal of Neuroimmunology, 2013; 258 (1-2): 91 DOI: 10.1016/j.jneuroim.2013.02.017

    Nguyễn Thuỳ Linh
    Theo Nature


    Tiêu diệt khối u não bằng phương pháp miễn dịch

    May 30, 2013 – Nhóm nghiên cứu tại trường đại học Lund ở Thụy điển đã đem lại hy vọng cho các bệnh nhân mắc loại khối u não nghiêm trọng nhất, glioblastoma thể đa hình, khi cho biết có thể chống lại khối u bằng hệ miễn dịch của chính họ. Các khối u thường rất khó loại bỏ hoàn toàn bằng cách phẫu thuật vì tế bào khối u phát triển vào bên trong mô não khỏe mạnh. Bệnh nhân mắc bệnh này thường không thể sống quá một năm sau khi phát hiện khối u.

    Description: C:\Users\LENOVO\Desktop\c28_s45.jpg

    Hình ảnh khối u lớn xuất hiện ở não khi bệnh nhân mắc glioblastoma.

    Nhóm nghiên cứu đã thử nhiều cách kích thích hệ miễn dịch, đã ức chế khối u bằng một loại “vaccine”. Vaccine này được biến đổi di truyền từ tế bào khối u để có thể sản xuất các phần tử kích thích miễn dịch. Các tế bào khối u đã biến đổi này (được chiếu xạ để mất khả năng phân chia) được kết hợp với một số tiểu phần thuộc hệ miễn dịch của cơ thể.

    Phương pháp điều trị này đã có những kết quả khả quan trên mô hình động vật: 75% chuột rat trải qua điều trị đã được chữa khỏi hoàn toàn khối u não.

    “Hệ miễn dịch của con người phức tạp hơn, do đó có thể kết quả sẽ không tốt như vậy khi thử nghiệm trên bệnh nhân. Tuy nhiên, với những tiên lượng xấu mà họ phải chấp nhận như hiện nay, mọi phương pháp mới đều quan trọng” – thành viên nhóm nghiên cứu cho biết.

    Trước đây nhóm đã thử kết hợp hoạt hóa hệ miễn dịch với hóa trị liệu. Khi chất hóa trị được đưa trực tiếp đến khu vực khối u, những kết quả tốt tiếp tục được khẳng định: 83% chuột còn sống.

    Nhóm nghiên cứu mong muốn trong tương lai, phương pháp hóa trị liệu cục bộ có thể kết hợp với phương pháp phẫu thuật để có thể tiêu diệt khối u ở mức cao nhất có thể.

    Tác giả Peter Siesjo hiện đang xin cấp phép nghiên cứu lâm sàng với liệu pháp kích thích hệ miễn dịch – có hoặc không kết hợp với hóa trị liệu cục bộ – như một phương pháp điều trị bệnh nhân mắc glioblastoma thể đa hình.

    Tham khảo:

    Sara Fritzell, Sofia Eberstål, Emma Sandén, Edward Visse, Anna Darabi, Peter Siesjö. IFNγ in combination with IL-7 enhances immunotherapy in two rat glioma models. Journal of Neuroimmunology, 2013; 258 (1-2): 91 DOI: 10.1016/
    j.jneuroim.2013.02.017

    Nguyễn Thuỳ Linh
    Theo Nature

  • Tuần 26/8/2013 – 31/8/2013

    Thứ/Ngày

    Giờ

    Nội dung

    Địa điểm

    Thành phần

    Thứ 2

    26/8/2013


    08h00-17h00

    Tiếp tục sắp xếp trang thiết bị, vệ sinh PTN

    SCL

    Nhóm quản lí thiết bị

    Nhóm quản lí cơ sở

    Nhóm quản lí thư viện

    Nhóm quản lí động vật – bioresource


    13h00-17h00

    Họp triển khai hợp tác nghiên cứu ung thư với UCLA và chuẩn bị cho JCM8

    VNU

    Phạm Văn Phúc

    Thứ 3

    27/8/2013

    08h00-17h00

    Tiếp tục sắp xếp trang thiết bị, vệ sinh PTN

    SCL

    Nhóm quản lí thiết bị

    Nhóm quản lí cơ sở

    Nhóm quản lí thư viện

    Nhóm quản lí động vật – bioresource


    13h00-15h00

    Họp nhóm Ung thư

    SCL

    Toàn bộ nhóm Ung thư:

    http://www.vinastemcelllab.com/vi/nghien-cuu-khoa-hoc/dinh-huong-nghien-cuu/318-nhom-ung-th.html


    16h00-17h00

    Họp nhóm Đái tháo đường

    SCL

    Phạm Văn Phúc

    NTM Phước

    Thứ 4

    28/8/2013


    09h00-12h00




    13h00-15h00

    Họp nhóm đái tháo đường

    SCL

    Phạm Văn Phúc

    ĐTT Loan

    PM Vương

    BNT Anh

    Thứ 5

    29/8/2013

    9h00-11h00

    Hoàn thiện quy chế quản lí năm học mới

    SCL

    Phạm Văn Phúc

    Toàn bộ các trưởng nhóm quản lí

    13h00-15h00

    Họp tái cấu trúc và định hướng phát triển nhóm Hỗ trợ sinh sản

    SCL

    Phạm Văn Phúc

    Nhóm sinh sản

    http://www.vinastemcelllab.com/vi/nghien-cuu-khoa-hoc/dinh-huong-nghien-cuu/320-nhom-h-tr-sinh-sn.html

    15h00-17h00




    Thứ 6

    30/8/2013

    9h00-10h00

    Triển khai quy chế năm học mới cho Trưởng nhóm quản lí

    SCL

    Phạm Văn Phúc

    Toàn bộ các trưởng nhóm quản lí

    14h00-15h00

    Họp xét sơ tuyển SV, HVCH, NCS tham gia nghiên cứu tại Lab

    SCL

    Phạm Văn Phúc

    Nhóm quản lí SV

    Thứ 7

    31/8/2013

    9h30-11h00

    Đi công tác Hà Nội


    Phạm Văn Phúc

    13h00-15h00




    15h00-16h00




    21h00-22h00


     

  • Phát hiện sự di chuyển của protein α-synuclein có liên quan đến cơ chế gây bệnh Parkinson

    Phát hiện sự di chuyển của protein α-synuclein có liên quan đến cơ chế gây bệnh Parkinson

    Sự tích tụ α-synuclein ở tế bào neuron trong não là một trong các tiêu chí chẩn đoán bệnh Parkinson và các bệnh thoái hóa thần kinh khác. Tuy nhiên, cơ chế bệnh sinh và quá trình hình thành các thể Lewy từ protein α-synuclein vẫn chưa được làm sáng tỏ. Gần đây, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu về các bệnh thoái hóa thần kinh ở Đức đã đưa ra được mô hình cho sự hình thành và di chuyển của loại protein này từ vùng thấp đến vùng cao hơn của não.
    Trong những nghiên cứu bệnh Parkinson ở người, sự hình thành các thể Lewy thường bắt đầu ở vùng hành tủy và ở các giai đoạn sau, protein α-synuclein được phát hiện tích tụ ở các phần cao hơn của não gồm não giữa và khu vực vỏ não. Thí nghiệm được bắt đầu với việc tạo ra mô hình chuột có biểu hiện protein α-synuclein của người. Vector virus tái tổ hợp được chuyển gen biểu hiện α-synuclein của người (hα-syn) được tiêm vào các sợi dây thần kinh ở cổ của chuột. Các vector biểu hiện sẽ theo các sợi thần kinh này đi đến vùng hành tủy, tại đây, các tế bào neuron sản xuất một số lượng lớn α-synuclein của người. Nhóm nghiên cứu tiếp tục theo dõi quá trình sản xuất và định vị của protein này trong não chuột trong vòng 4 tháng rưỡi sau khi tiêm vector. Các protein ngoại sinh chỉ được tổng hợp trong các neuron thuộc vùng hành tủy nhưng đến tháng thứ 3, các protein này được phát hiện ở các vùng não xa vùng hành tủy.
    Nghiên cứu vẫn chưa đưa ra được cơ chế của sự di chuyển protein này từ vùng hành tủy đến các vùng não khác, nhưng đặc điểm chung có thể nhận thấy được đối với những tế bào có sự gia tăng tích tụ α-synuclein là sự phình to của các tế bào neuron. Sự sản xuất quá mức protein α-synuclein trong cơ thể con người xảy ra do nhiều yếu tố như: sự lão hóa, tổn thương thần kinh, đa hình kiểu gen, kết quả nghiên cứu này gợi ra được mối liên hệ giữa các yếu tố nguy cơ gây bệnh, sự tăng mức protein α-synuclein, sự di chuyển của protein này và quá trình tích tụ của nó. Nếu được phát triển, nghiên cứu này có thể được ứng dụng trong chẩn đoán phát hiện bệnh Parkinson, đồng thời cũng là một liệu pháp can thiệp trực tiếp vào quá trình phát triển bệnh bằng cách ngăn chặn sự di chuyển của protein α-synuclein đến những trung khu thần kinh cấp cao hơn.

     

    sdf

    A – Hình ảnh nhuộm hóa mô miễn dịch lát cắt não chuột với kháng thể hα-syn cho thấy sự phình to của các tế bào có sự gia tăng tích tụ protein α-synuclein.

    B – Tế bào phình to ở Hành Tủy 7.3 µm3.

    C – Tế bào phình to ở cầu não 4.1 µm3.

    D – Tế bào phình to ở não giữa 2.8 µm3.

    E – Tế bào phình to ở não trước 1.4 µm3.

    Lê Minh Dũng
    lmdung@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/05/130524104825.htm

     

     

  • Tế Bào Gốc – Tiềm năng và Ứng dụng

    Ngày 02/08/2013, Tại Sở Khoa học và Công nghệ TP Hồ Chí Minh đã diễn ra Chương trình báo cáo phân tích xu hướng Công nghệ: Hội thảo chuyên đề “ Tế bào gốc và tiềm năng ứng dụng”. Chương trình hân hạnh nhận được sự tham dự đông đảo của nhiều chuyên gia, bác sĩ, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu và đặc biệt quan tâm đến công nghệ Tế bào gốc (TBG) và ứng dụng của nó đến đời sống và sức khỏe con người.

    Mở đầu chương trình, Thạc sĩ Phan Kim Ngọc – Giảng viên Trường Đại học khoa học tự nhiên TP Hồ Chí Minh đã có những chia sẻ chuyên sâu và cận cảnh về Tế Bào Gốc và tiềm năng ứng dụng của nó trong thực tiễn. Ông có nhận định hóm hỉnh: “Tế bào gốc – con đẻ của trời. Công nghệ tế bào gốc – con đẻ của công nghệ sinh học”. Trong y học, TBG đã góp phần cực kỳ lớn cho việc phục hồi sức khỏe con người trong việc tái tạo, điều trị bại não, vô sinh, ung thư, thậm chí căn bệnh thế kỷ HIV ( nhờ công nghệ TBG)… Trong lĩnh vực làm đẹp, TBG đã có nhiều phát minh thành công trong việc tái tạo phục hồi tổn thương, duy trì vẻ đẹp. Trong thực phẩm, tương lai tế bào gốc sẽ là nguồn thực phẩm chức năng vô tận.

    Thạc sĩ Phan Kim Ngọc đang chia sẻ về Tế bào gốc

    Tiếp nối chương trình, ông Nguyễn Thanh Quang – đại diện từ phòng nghiên cứu và phát triển của Công ty TNHH Thế Giới Gene (Gene World) đã có phát biểu rất chi tiết về quá trình nghiên cứu phát triển và báo cáo phân tích xu hướng các dòng sản phẩm tế bào gốc ứng dụng trong trị bệnh và thẩm mỹ. Qua đó giới thiệu dòng sản phẩm làm đẹp tuyệt vời từ TBG 3RE, 4Anti và Smoother. Thực trạng nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn được ông trình bày rõ ràng giúp người nghe dễ hiểu và tiếp thu kiến thức được nhanh chóng hơn.

    Ông Nguyễn Thanh Quang với phần trình bày về nghiên cứu TBG

    Sử dụng TBG trung mô (MSC) từ mô mỡ và PRP trong điều trị là bài giảng tiếp theo của Thạc sĩ – Bác sĩ Lê Thị Bích Phượng trình bày. Trọng tâm bài giảng xoay quanh  ADSC là một trong 5 loại MSC sử dụng nhiều nhất. Hiện nay ADSC đã được khai thác và thử nghiệm điều trị lâm sàng trên 10 bệnh khác nhau.

    Ths. Bs Lê Thị Bích Phượng với phần trình bày về ADSC

    Đại diện của Bệnh viện truyền máu huyết học TP Hồ Chí Minh – ông Huỳnh Văn Mẫn – Phó trưởng khoa bệnh viện đã có phần trình bày về Ngân hàng TBG – Bệnh viện truyền máu huyết học và ứng dụng trong điều trị các bệnh lý huyết học lành tính và ác tính. Những số liệu ban đầu cho thấy ghép TBG tạo máu có thể được xem như một phương pháp điều trị chuẩn cho bệnh lý huyết học lành tính và ác tính ở các quốc gia đang phát triển.

    Ông Huỳnh Văn Mẫn – Phó trưởng khoa bệnh viện huyết học TPHCM

    Thạc sĩ – Bác sĩ Mai Văn Điển – Giám Đốc Y khoa ngân hàng TBG Mekostem tiếp nối chương trình với Dịch vụ lưu giữ tế bào gốc tại ngân hàng TBG Mekostem. Với sự lựa chọn kỹ lưỡng và cẩn thận về các loại tế bào và công nghệ, MekoStem đã lên tiêu chuẩn xây dựng ngân hàng đem đến sự lưu trữ an toàn qua công nghệ tiên tiến hiện đại.

    Thạc sĩ – Bác sĩ Mai Văn Điển – Giám Đốc Y khoa ngân hàng TBG Mekostem

    Kết thúc chương trình, rất nhiều câu hỏi và các cuộc tranh luận đã diễn ra khá sôi nổi. Bác sĩ ở bệnh viện chấn thương chỉnh hình sau khi tham dự chương trình đã chia sẻ rất muốn trao đổi và học hỏi thêm từ chương trình, Ông cũng là bác sĩ với kinh nghiệm lâu năm đang rất muốn thử ứng dụng TBG vào việc tái tạo xương sụn, trị thoái hóa khớp. Ông cũng thắc mắc không biết nó có sự cải thiện rõ rệt hay không. Ths. Bs Lê Thị Bích Phượng đã có lời giải thích thỏa đáng cho trường hợp bác sĩ nêu ra làm vấn đề thêm rõ ràng và dễ hiểu hơn.

    Bác sĩ ở bệnh viện chấn thương chỉnh hình có câu hỏi để nghiên cứu thêm về TBG đối với xương sụn

    Ths. Bs Lê Thị Bích Phượng đã có lời giải thích thỏa đáng cho trường hợp trên

    Đóng góp ý kiến cho chương trình còn có Giám Đốc Bệnh viện truyền máu huyết học TPHCM – Ông Phù Chí Dũng, qua chương trình ông mong muốn sẽ có tín hiệu khả quan và thiết thực hơn nữa, TBG cần được trải qua quá trình thí nghiệm cẩn thận và nghiên cứu rõ các tác dụng phụ nếu có để đáp ứng được nhu cầu sức khỏe của người dân.

    Một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ cũng có rất nhiều thắc mắc v
    à đã được chương trình giải đáp và phân tích rõ ràng.

    * Hình ảnh từ chương trình :

    Bà Phạm Thị Ngọc Hân, Giám đốc World Beauty Center cùng đối tác


    Chụp hình lưu niệm cùng Ths. Phan Kim Ngọc
    Kết thúc chương trình còn rất nhiều câu hỏi xoay quanh TBG và ứng dụng của nó. Chứng tỏ chương trình thu hút được nhiều sự quan tâm rất lớn từ phía các Bác sĩ, các chuyên gia cũng như khách mời. Và chắc chắn ngành công nghiệp TBG còn tiến xa hơn nữa trong quá trình hoàn thiện sức khỏe sắc đẹp của con người.
    Theo World Nets
  • Tế bào não trưởng thành có nguồn gốc từ da: một hy vọng mới

    Các căn bệnh khó nghiên cứu như bệnh Alzheimer, chứng tâm thần phân liệt, bệnh tự kỷ giờ đây có thể được tiếp cận an toàn và hiệu quả nhờ vào một phương pháp mới nhằm thu nhận tế bào não trưởng thành còn được gọi là tế bào thần kinh (neuron) từ tế bào da được tái thiết lập chương trình.

    Theo GS. Gong Chen tại trường đại học Penn State và cũng là trưởng nhóm nghiên cứu: “Phần thú vị nhất của nghiên cứu này là nó cung cấp mô hình bệnh lý trực tiếp đầy hứa hẹn, cho phép nghiên cứu trên đĩa Petri, các neuron người trưởng thành có biểu hiện giống như các neuron tăng trưởng tự nhiên trong não người.” GS Chen nói thêm rằng phương pháp này có thể đưa đến việc điều trị cá thể hóa cho từng bệnh nhân dựa trên thông tin di truyền và tế bào của chính họ. Nghiên cứu sẽ được xuất bản trên tạp chí Stem Cell Research.


    Tế bào gốc thần kinh người (màu đỏ), được tái thiết lập chương trình từ tế bào da trưởng thành, biệt hóa hiệu quả thành tế bào não (xanh lục), sau khi được nuôi cấy thành tế bào hình sao.

    GS Chen nói: “Chắc chắn rằng chúng tôi không muốn lấy tế bào não của một người nào đó để làm thí nghiệm, vì vậy việc tạo ra tế bào não bệnh nhân trên đĩa Petri là việc làm tốt nhất cho mục đích nghiên cứu và tầm soát thuốc”. GS giải thích rằng, trong các nghiên cứu trước, các nhà khoa học đã tìm ra cách để tái thiết lập chương trình tế bào da từ bệnh nhân để trở thành tế bào gốc vạn năng không chuyên biệt hay không biệt hóa (iPSCs). GS giải thích: “Trong quá trình phát triển, những tế bào gốc này sẽ biệt hóa thành nhiều kiểu tế bào chuyên hóa, như tế bào cơ, tế bào não, tế bào máu. Vì thế, sau khi tạo iPSCs từ tế bào da, các nhà nghiên cứu sau đó có thể nuôi cấy chúng để trở thành tế bào não, hay neuron, sau đó có thể được nghiên cứu an toàn trong đĩa Petri.”

    Giờ đây, trong nghiên cứu mới của GS Chen và nhóm nghiên cứu của ông, họ đã tìm ra cách để biệt hóa iPSCs thành neuron người trưởng thành hiệu quả hơn nhiều, và tạo ra tế bào có biểu hiện tương tự như neuron trong não. GS Chen giải thích rằng trong môi trường tự nhiên của neuron, chúng luôn được nhận thấy trong trạng thái giống tế bào hình sao, có số lượng vượt trội trong não để giúp neuron thực hiện đúng chức năng. GS giải thích: “Vì trong não các neuron tiếp xúc với tế bào hình sao nên chúng tôi dự đoán rằng sự tương tác vật lý trực tiếp này có thể là một phần không thể thiếu của sự tăng trưởng của neuron.”

    Để kiểm tra giả thiết này, GS Chen và cộng sự bắt đầu bằng việc nuôi cấy tế bào gốc thần kinh có nguồn gốc từ iPSC, đây là những tế bào gốc có tiềm năng biệt hóa thành neuron. Những tế bào này được nuôi trên lớp đơn tế bào hình sao để hai loại tế bào này tiếp xúc với nhau.

    GS Chen nói: “Chúng tôi thấy rằng những tế bào gốc thần kinh này khi nuôi cấy trên tế bào hình sao sẽ biệt hóa thành neuron trưởng thành hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ nuôi cấy tế bào gốc thần kinh trên đĩa Petri. Điều này dường như là tế bào hình sao có vai trò trong việc kích hoạt tế bào gốc, nói chúng phải làm gì và giúp chúng thực hiện số phận trở thành neuron.”

    Để chứng minh sự phát triển mạnh hơn của neuron khi nuôi cấy cạnh tế bào hình sao, GS Chen và cộng sự sử dụng kỹ thuật đo điện sinh lý học và cho thấy tế bào tăng trưởng trên tế bào hình sao có nhiều sự kiện synap hơn – tín hiệu được gửi từ một neuron đến các neuron khác. Trong một thí nghiệm khác, chỉ sau một tuần các tế bào gốc thần kinh tăng trưởng cạnh tế bào hình sao, các nhà nghiên cứu cho thấy các neuron biệt hóa mới bắt đầu hoạt động điện thế – tín hiệu kích thích điện nhanh xảy ra trong mọi neuron trong não. Trong thí nghiệm cuối, các thành viên trong nhóm trộn tế bào gốc thần kinh người với các neuron chuột. GS Chen nói: “Chúng tôi thấy rằng chỉ sau một tuần, có nhiều tương tác giữa neuron chuột và neuron người.” Ông giải thích rằng sự tương tác xảy ra khi một neuron tương tác với tế bào cạnh nó và giải phóng một chất hóa học gọi là chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter) để điều hòa hoạt động của tế bào đó.

    GS Chen nói: “Các nhà nghiên cứu trước chỉ có thể thu nhận tế bào não của tử thi bị bệnh Alzheimer, chứng tâm thần phân liệt và bệnh tự kỷ. Giờ đây, các nhà nghiên cứu có thể lấy tế bào da từ bệnh nhân – một quy trình an toàn và ít xâm lấn, và chuyển chúng thành tế bào não mô phỏng hoạt động tế bào não của chính bệnh nhân. GS nói thêm rằng sử dụng phương pháp này, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu làm thế nào thuốc sẽ tác động lên các tế bào não của từng bệnh nhân, mà không cần bệnh nhân thử thuốc – hạn chế các tác dụng phụ nguy hiểm.

    Vũ Thanh Bình
    vtbinh@hcmus.edu.vn
    Nguồn: http://www.sciencedaily.com/releases/2013/06/130606141130.htm