Author: tcnhat

  • Các sự kiện nổi bật của PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc 2015

    Các sự kiện nổi bật của PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc 2015

    Nhân dịp sinh nhật lần thứ 8 của PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, Trường ĐH KHTN, ĐHQG Tp.HCM, Lãnh đạo PTN đã bình chọn 8 sự kiện nổi bật của PTN trong năm qua.

     

    Sau đây là các sự kiện nổi bật:

    1. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nâng cấp PTN Nghiên cứu và Ứng dụng TBG, Trường ĐHKHTN, ĐHQG Tp.HCM thành PTN trọng điểm quốc gia về TBG.

    Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch mạng lưới Viện, Trung tâm và PTN Nghiên cứu CNSH đến năm 2025, TTCP đã quyết định nâng cấp PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc thành PTN Trọng điểm cấp quốc gia về Tế bào gốc. Theo đó, từ năm 2016, PTN sẽ thực hiện dự án tăng cường cơ sở vật chất và thực hiện quy chế PTN trọng điểm quốc gia.

     

    23.1

    2. Sản phẩm nghiên cứu bởi PTN đã được Bộ Y tế cho phép truyền tĩnh mạch tế bào gốc từ mô mỡ tự thân trong thử nghiệm lâm sàng điều trị bệnh phổi tắt nghẽn mạn tính tại BV ĐK Vạn Hạnh và BV Nguyễn Tri Phương.

    Tháng 06/2015, Bộ Y tế đã quyết định phê duyệt thử nghiệm lâm sàng sử dụng tế bào gốc mô mỡ tự thân điều trị bệnh phổi tắt nghẽn mạn tính. Như vậy, sau phê duyệt đầu tiên vào năm 2013 cho điều trị thoái hoá khớp, đây là bệnh thứ 2 mà Bộ Y tế cho phép thử nghiệm lâm sàng sử dụng các sản phẩm do PTN Nghiên cứu, chế tạo. Khác với thử nghiệm đầu tiên, các sản phẩm được tiêm cục bộ thì lần này sản phẩm được truyền tĩnh mạch.

     

    23.2.1

    3. Tạp chí Y sinh học với tên (Biomedical Research and Therapy) với 2 chủ đề chính là Tế bào gốc và Ung thư được xếp vào Danh mục Emerging Sources Citation Index (ESCI) của Web of Science (Thomson Reuters). Đây là Tạp chí đầu tiên của Việt Nam được liệt kê vào danh mục này.

     

    23.3

     

    4. Đề tài Ứng dụng tế bào tua trong điều trị bệnh ung thư vú thực nghiệm đã nghiệm thu thành công với loại xuất sắc; và được Hội đồng đề xuất để điều trị trên người.


    5. Hội nghị quốc tế GIC lần thứ 2, với chủ đề Innovations in Cancer Research and Regenerative Medicine thành công tốt đẹp với gần 400 người tham dự đến từ 15 quốc gia khác nhau.

     

    23.4

     

    6. PTN Tế bào gốc đã chuyển hoàn toàn xuống cơ sở mới tại toà nhà B23, cơ sở Linh Trung, Trường ĐHKHTN, ĐHQG Tp.HCM.

    Địa chỉ mới: Khu phố 6, Linh Trung, Thủ Đức, Tp.HCM

    23.5

    7. Các công trình nghiên cứu của PTN đạt các giải thưởng lớn như Quả Cầu Vàng, Giải thưởng KOVA

    23.6

    8. PTN xây dựng và triển khai chương trình nghiên cứu hợp tác chung giữa VNU-HCM và UCLA (VUCI – VNU HCM UCLA Cancer Intiative)

    VUCI là một chương trình hợp tác quan trọng giữa ĐHQG Tp.HCM và ĐH UCLA, Hoa Kỳ.

    23.7.1

     

     

     

     

  • Kết quả vào vòng chung kết cuộc thi Stem cell Innovation 2015

    Kết quả vào vòng chung kết cuộc thi Stem cell Innovation 2015

    Thông báo kết quả vào vòng Chung kết

    Cuộc thi ý tưởng “STEM CELL INNNOVATION”- Lần II, năm 2015

     

    Căn cứ vào kết quả của vòng thi bán kết diễn ra vào ngày 14/12/2015, Ban tổ chức trân trọng thông báo và chúc mừng các đội thi và cá nhân có ý tưởng xuất sắc được vào vòng Chung kết của hội thi, danh sách như sau:

    STT TÁC GIẢ- NHÓM TRƯỞNG TRƯỜNG TÊN Ý TƯỞNG
    1 Vũ Thanh Thảo Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Sử dụng tế bào gốc trong điều trị bệnh điếc tiếp nhận
    2 Đinh Hoàng Minh Đại học Khoa Học Tự Nhiên Tp Hồ Chí Minh Sản xuất tổ yến nhân tạo
    3 Lê Thị Bích Phượng Đại học Khoa Học Tự Nhiên Tp Hồ Chí Minh Tái tạo mô tử cung xơ hóa in vivo nhờ hệ thống phân hủy sinh học collagen/hydrogel
    4 Trần Hữu Phúc Đại học Khoa học Huế Máu nhân tạo cải biến gen cho mọi người
    5 Lê Nhật Quỳnh Đại học Y Dược Huế Cảm ứng dòng tế bào gốc ở giai đoạn thoa trùng của Plasmodium falciparum trong điều trị ung thư gan
    6 Nguyễn Thị Tuyết Đại học Khoa Học Tự Nhiên Tp Hồ Chí Minh Tiêu diệt đặc hiệu tế bào ung thư bằng protien polybia-mp1 (mp1) chiết xuất từ nọc độc ong bắp cày

     

    Các cá nhân và đội thi có tên trong danh sách trên sẽ trình bày ý tưởng vào lúc 8 giờ 00 thứ năm ngày 24/12/2014 tại hội trường B, Trường ĐH KHTN TP. HCM cơ sở Linh Trung (Khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức).

    1. Cơ cấu điểm vòng chung kết: Tính mới và sáng tạo (40%); Tính thực tiễn (30%); Có đề xuất phương pháp thực hiện khoa học (20%); Hình thức trình bày (10%).
    2. Thời gian trình bày: 5 phút, BGK chất vấn 10 phút.

    Lưu ý: Các đội thi có mặt 7 giờ 30 sáng ngày 24/12/2015, mặc đồng phục của cuộc thi

     

  • PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc thiết lập mối quan hệ toàn diện với Viện Nghiên cứu Enzyme và Viện Khoa học Sinh học Sức Khoẻ, ĐH Tokushima

    PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc thiết lập mối quan hệ toàn diện với Viện Nghiên cứu Enzyme và Viện Khoa học Sinh học Sức Khoẻ, ĐH Tokushima

    Từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 2015, nhân chuyến đi dự Hội nghị The 1st Symposium of Molecular Medicine tại ĐH Tokushima, Nhật Bản, TS. Phạm Văn Phúc – Phó Trưởng phòng PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, ĐH KHTN, ĐHQG Tp.HCM đã có nhiều buổi trao đổi để phát triển mối quan hệ hợp tác giữa  PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc và Viện Nghiên cứu Enzyme, Viện Khoa học Sinh học Sức khoẻ, Đại học Tokushima, Nhật Bản.

    to3

    Trên cơ sở quan hệ hợp tác đã thiết lập từ năm 2010, hai bên đã tiến hành nhiều chuyến thăm quan, trao đổi Đoàn và hỗ trợ đào tạo, mối quan hệ hợp tác giữa 2 bên ngày càng được thắt chặt và nâng lên tầm cao mới về hợp tác đào tạo và tổ chức hội nghị.

    Từ năm 2010, Viện Nghiên cứu Enzyme, Đại học Tokushima đã đào tạo giúp cho PTN 01 Tiến sĩ, và 04 học viên tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn về công nghệ protein. Các Giáo sư của ĐH Tokushima và PTN Tế bào gốc nhiệt tình tham gia vào tất cả các Hội nghị, Hội thảo do 2 bên tổ chức.

    Trong chuyến công tác này, 2 bên đã có những kết luận quan trọng như sau:

    –          Viện Nghiên cứu Enzyme, Viện KH Sinh học Sức khoẻ tiếp tục giúp đỡ PTN đào tạo Tiến sĩ và các học viên thông qua các học bổng của Trường và chính phủ Nhật

    –          Tiếp tục thực hiện trao đổi Đoàn, cùng tổ chức các Hội nghị ở 2 bên

    –          Từ năm 2016, hai bên phối hợp để xây dựng các đề tài nghiên cứu chung về hướng ung thư, cơ chế truyền tín hiệu trong tế bào, tế bào gốc

    –          Từ năm 2016, hai bên cùng nỗ lực để tổ chức trao đổi cán bộ nghiên cứu khoa học, tổ chức nhóm nghiên cứu quốc tế với sự tham gia của các cán bộ nghiên cứu của cả 2 đơn vị

     

    to1

    Hình 1. TS. Phạm Văn Phúc chụp ảnh lưu niệm với các GS Đại học Tokushima.

    to2

     

    Hình 2. TS. Phạm Văn Phúc trình bày tại Hội nghị.

    Đại học Tokushima, Nhật Bản là đại học quốc gia của Nhật Bản, toạ lạc tại Tp. Tokushima, Nhật Bản, Đại học gồm có 7 Trường và 5 Khoa. Được thiết lập từ năm 1949, đến năm 2014, Đại học Tokushima có giải Nobel Prize đầu tiên trong lĩnh vực Vật Lí (GS Shuji Nakamura). Đại học Tokushima có 6000 sinh viên Đại học và 1700 sinh viên sau ĐH đến từ Nhật và các quốc gia khác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Mĩ… Đại học có 3 campus: Shinkura, Jōsanjima, và Kuramoto.

    to4

    Hình 3. Một góc của Đại học Tokushima (Nhật Bản).

  • Isolation and proliferation of umbilical cord tissue derived mesenchymal stem cells for clinical app

    Isolation and proliferation of umbilical cord tissue derived mesenchymal stem cells for clinical applications

    • Phuc Van Pham Email author
    • , Nhat Chau Truong
    • , Phuong Thi-Bich Le
    • , Tung Dang-Xuan Tran
    • , Ngoc Bich Vu
    • , Khanh Hong-Thien Bui
    • , Ngoc Kim Phan

    Abstract

    Umbilical cord (UC) is a rich source of rapidly proliferating mesenchymal stem cells (MSCs) that are easily cultured on a large-scale. Clinical applications of UC–MSCs include graft-versus-host disease, and diabetes mellitus types 1 and 2. UC–MSCs should be isolated and proliferated according to good manufacturing practice (GMP) with animal component-free medium, quality assurance, and quality control for their use in clinical applications. This study developed a GMP standard protocol for UC-MSC isolation and culture. UC blood and UC were collected from the same donors. Blood vasculature was removed from UC. UC blood was used as a source of activated platelet rich plasma (aPRP). Small fragments (1–2 mm2) of UC membrane and Wharton’s jelly were cut and cultured in DMEM/F12 medium containing 1 % antibiotic–antimycotic, aPRP (2.5, 5, 7.5 and 10 %) at 37 °C in 5 % CO2. The MSC properties of UC–MSCs at passage 5 such as osteoblast, chondroblast and adipocyte differentiation, and markers including CD13, CD14, CD29, CD34, CD44, CD45, CD73, CD90, CD105, and HLA-DR were confirmed. UC–MSCs also were analyzed for karyotype, expression of tumorigenesis related genes, cell cycle, doubling time as well as in vivo tumor formation in NOD/SCID mice. Control cells consisted of UC–MSCs cultured in DMEM/F12 plus 1 % antibiotic–antimycotic, and 10 % fetal bovine serum (FBS). All UC-MSC (n = 30) samples were successfully cultured in medium containing 7.5 and 10 % aPRP, 92 % of samples grew in 5.0 % aPRP, 86 % of samples in 2.5 % aPRP, and 72 % grew in 10 % FBS. UC–MSCs in these four groups exhibited similar marker profiles. Moreover, the proliferation rates in medium with PRP, especially 7.5 and 10 %, were significantly quicker compared with 2.5 and 5 % aPRP or 10 % FBS. These cells maintained a normal karyotype for 15 sub-cultures, and differentiated into osteoblasts, chondroblasts, and adipocytes. The analysis of pluripotent cell markers showed UC–MSCs maintained the expression of the oncogenes Nanog and Oct4 after long term culture but failed to transfer tumors in NOD/SCID mice. Replacing FBS with aPRP in the culture medium for UC tissues allowed the successful isolation of UC–MSCs that satisfy the minimum standards for clinical applications.

    Keywords

    Activated platelet rich plasma Clinical application of mesenchymal stem cells Umbilical cord Umbilical cord derived mesenchymal stem cells Good manufacturing practice UC–MSCs

    Title
    Isolation and proliferation of umbilical cord tissue derived mesenchymal stem cells for clinical applications
    Journal
    Cell and Tissue Banking

    DOI
    10.1007/s10561-015-9541-6
    Print ISSN
    1389-9333
    Online ISSN
    1573-6814
    Publisher
    Springer Netherlands
    Additional Links
    Topics
    Keywords
    • Activated platelet rich plasma
    • Clinical application of mesenchymal stem cells
    • Umbilical cord
    • Umbilical cord derived mesenchymal stem cells
    • Good manufacturing practice
    • UC–MSCs
    Industry Sectors
    Authors
    Author Affiliations
    • 1. Laboratory of Stem Cell Research and Application, University of Science, Vietnam National University, Ho Chi Minh City, Vietnam
    • 2. Van Hanh Stem Cell Unit, Van Hanh Hospital, Ho Chi Minh City, Vietnam
    • 3. University Medical Center, University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh City, Vietnam
  • Production of dendritic cells and cytokine-induced killer cells from banked umbilical cord blood sam

    Production of dendritic cells and cytokine-induced killer cells from banked umbilical cord blood sam

    Production of dendritic cells and cytokine-induced killer cells from banked umbilical cord blood samples

    Abstract

    Umbilical cord blood (UCB) is considered to be a source of hematopoietic stem cells (HSCs). All UCB banks have recently become interested in the isolation and storage of HSCs for the treatment of hematological diseases. However, UCB was also recently confirmed as a source of immune cells for immunotherapy such as dendritic cells (DCs) and cytokine-induced killer cells (CIKs). This study aimed to exploit this source of immune cells in banked UCB samples. After collection of UCB samples, mononuclear cells (MNCs) containing stem cells, progenitor cells, and mature cells were isolated by Ficoll-Hypaque-based centrifugation. The MNCs were subjected to freezing and thawing according to a previously published protocol. The banked MNCs were used to produce DCs and CIKs. To produce DCs, MNCs were induced in RPMI 1640 medium supplemented with GM-CSF (50 ng/ml) and IL-4 (40 ng/ml) for 14 days. To produce CIKs, MNCs were induced in RPMI 1640 medium supplemented an anti-CD3 monoclonal antibody, IL-3, and GMC-SF for 21–28 days. Both DCs and CIKs were evaluated for their phenotypes and functions according to previously published protocols. The results showed that banked UCB samples can be successfully used to produce functional DCs and CIKs. These samples are valuable sources of immune cells for immunotherapy. The present results suggest that banked UCB samples are useful not only for stem cell isolation, but also for immune cell production.

    Keywords

    Banked UCB Stem cells Immune cells Dendritic cells Cytokine-induced killer cells Immunotherapy

    Title
    Production of dendritic cells and cytokine-induced killer cells from banked umbilical cord blood samples
    Open Access
    Available under Open Access
    Journal
    Biomedical Research and Therapy
    2:28

    Online Date
    November 2015
    DOI
    10.7603/s40730-015-0028-7
    Online ISSN
    2198-4093
    Publisher
    Laboratory of Stem Cell Research and Application
    Additional Links
    Topics
    Keywords
    • Banked UCB
    • Stem cells
    • Immune cells
    • Dendritic cells
    • Cytokine-induced killer cells
    • Immunotherapy
    Authors
    Author Affiliations
    • 1. Laboratory of Stem Cell Research and Application, University of Science, Viet Nam National University, Ho Chi Minh, Viet Nam

  • Đại học quốc gia Đài Loan Tsing Hua thăm và làm việc tại PTN Tế Bào Gốc

    Đại học quốc gia Đài Loan Tsing Hua thăm và làm việc tại PTN Tế Bào Gốc

    Đại học quốc gia Đài Loan Tsing Hua thăm và làm việc tại PTN Tế Bào Gốc

    Chiều thứ 6 ngày 18-12-2015, PTN Tế Bào Gốc đã đón tiếp Tiến sĩ Yu-Chen Hu, Giáo sư danh dự, Trưởng Khoa Công nghệ hóa học, Đại học Quốc gia Tsing Hua; và Tiến sĩ Chao-Min Cheng, Phó giáo sư, Viện Công nghệ Y sinh học, Đại học quốc gia Tsing Hua, Đài Loan đến thăm và làm việc.

    18.12.1

    Giáo sư trao quà và thông tin giới thiệu về đại học Tsing Hua

    Đón tiếp Đoàn có Trưởng phòng PTN Tế Bào Gốc, Thầy Phan Kim Ngọc; Phó Trưởng PTN Tế Bào Gốc ThS. Trương Hải Nhung, Trưởng Bộ phận Quan hệ và hợp tác quốc tế ThS. Nguyễn Trường Sinh, Trưởng các nhóm nghiên cứu TS Trần Hồng Diễm; ThS Vũ Bích Ngọc , ThS. Phí Thị Lan, ThS Đặng Tùng Loan, cùng với sự hỗ trợ tổ chức của Bộ phận tổ chức sự kiện PTN Tế Bào Gốc ( Nguyễn Hải Nam, Nguyễn Trọng Hòa, Nguyễn Thị Lam Huyên)

    18.12.2

    Báo cáo giới thiệu về PTN Tế Bào Gốc

    Tại buổi làm việc, 2 bên giới thiệu về các hướng nghiên cứu và những gì đã đạt được. Các Giáo sư ấn tượng và đánh giá cao sự năng động và tiềm năng phát triển của PTN Tế bào gốc. Hai bên tìm được những điểm tương đồng về các hướng nghiên cứu, đặt nên tảng cho những hợp tác trong tương lai.  Các Giáo sư có lời mời đại diện của PTN Tế bào gốc sang thăm Đại học quốc gia Tsing Hua, hứa hẹn sẽ quay trở lại thăm PTN Tế bào gốc để thảo luận sâu hơn các cơ hội hợp tác nghiên cứu trong tương lai gần.

    18.12.3

    Giáo sư tham quan khu nghiên cứu, PTN Tế Bào Gốc

    Sau chuyến thăm tại PTN Tế bào gốc, các Giáo sư đã gặp mặt nói chuyện với các sinh viên của Khoa sinh học, và sau đó đã diễn ra buổi thảo luận hợp tác với Khoa Sinh và Công nghệ sinh học, Đại học KHTN.

  • Chuyện người tự đem mình làm thí nghiệm

    Chuyện người tự đem mình làm thí nghiệm

    ThS Phan Kim Ngọc – Trưởng phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia TPHCM tự đem bản thân mình ra làm thí nghiệm điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) bằng tế bào gốc.

    Là một trong những người đầu tiên xây dựng công nghệ tế bào gốc tại Việt Nam, đồng thời cũng là bệnh nhân đầu tiên ở Việt Nam tự đem bản thân mình ra làm thí nghiệm điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) bằng tế bào gốc, ThS Phan Kim Ngọc – Trưởng phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc, Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia TPHCM – cho rằng, khi mình đã hiểu, đã tin thì việc đó không có gì là khó.

    Hoặc là chết, hoặc tế bào gốc

    Không tự nhận mình là người đầu tiên gây dựng nên ngành khoa học tế bào gốc ở Việt Nam, ThS Phan Kim Ngọc bảo, ông chỉ là một trong số những người say sưa với công nghệ tế bào gốc ở Việt Nam mà thôi. Ông chỉ là người đầu tiên lấy bản thân mình ra làm thí nghiệm điều trị COPD bằng tế bào gốc. Nhớ lại thời điểm phát hiện ra bệnh cách đây 10 năm, ông cho biết: “Năm 2005, tôi phát hiện bị bệnh COPD. Đáng buồn là khi phát hiện thì bệnh đã ở giai đoạn bốn. Các bác sỹ lúc đó bảo, đó là giai đoạn gần như không thể can thiệp được gì nữa. Đấy là chưa kể, đây là căn bệnh không thể chữa khỏi mà chỉ có thể hạn chế sự phát triển để sống chung và nâng cao tuổi thọ mà thôi. Sống chung với căn bệnh mấy năm, đến tháng 11/2013 tôi quyết định tự lấy bản thân mình ra làm thí nghiệm điều trị COPD bằng tế bào gốc. Phải công bằng mà nói, nếu không có tế bào gốc thì tôi đã lê lết rồi”.

    Lý giải về việc tự lấy bản thân mình ra làm thí nghiệm, ThS Phan Kim Ngọc cho rằng, vì ông đã quá hiểu tế bào gốc là thế nào, có tác dụng ra sao nên ông không có lý do gì để nghi ngại hay run sợ. Niềm tin của ông là chắc chắn nhưng lại không phải là niềm tin của tất cả những người khác, nên trước khi quyết định đưa mình ra làm thí nghiệm, ông nhận được nhiều lời can ngăn của bạn bè, người thân trong gia đình. Khi đó, ông đứng trước hai trạng thái khác nhau: Một là đang ở cùng đường – như lời bác sỹ nói, hai là ông lại quá hiểu về tế bào gốc và rất nhiều chuyên gia hàng đầu cùng ông nghiên cứu đều khẳng định tính hiệu quả của phương pháp này.

    Tôi hỏi, với một sự thành thực ở thời điểm trước khi cấy ghép, ông có lo lắng không. Ông bảo, thực ra thì cũng có chứ không phải không. “Ít ra thì nó là tính mạng của mình, nói mình hoàn toàn không nghĩ gì thì cũng không đúng. Tôi lo là về kỹ thuật, liệu có khả năng xảy ra sai sót gì, có sự cố nào trong quá trình cấy ghép hay không, có gặp trục trặc gì không, có thao tác nào làm chưa chuẩn xác không, chứ tôi không nghi ngờ gì về tính năng, tác dụng của tế bào gốc”.Sau 2 tháng thử nghiệm cấy tế bào gốc, sức khỏe của ông đã tốt hơn. Trong suốt 18 tháng liên tiếp, ông không còn bị điều trị cấp, dễ thở hơn. Nhờ có sự thành công trong việc cấy ghép tế bào gốc chữa bệnh tắc nghẽn phổi mạn tính, nhiều bệnh nhân COPD sau khi nắm bắt được thông tin đều đến đăng ký muốn thử nghiệm.

    Chuyện người tự đem mình làm thí nghiệm - 1

    ThS Phan Kim Ngọc báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân.

    “Mở đường sống” cho nhiều người

    Kể từ sau ca cấy ghép thành công của ThS Phan Kim Ngọc, đến nay Bệnh viện Vạn Hạnh phối hợp cùng Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TPHCM) đã thực hiện điều trị bằng tế bào gốc trên một số bệnh nhân COPD ( trong chương trình xin phép thử nghiệm) và đã có nhiều kết quả tốt. Đây cũng là đơn vị đầu tiên và duy nhất trên cả nước được phép của Bộ Y tế sử dụng phương pháp cấy ghép tế bào gốc điều trị bệnh COPD. TS Phan Kim Ngọc cho biết, trước đây, để có được tế bào gốc cấy ghép thì rất phức tạp và tốn kém, nhưng giờ công nghệ đã phát triển, nguồn tế bào gốc không phải là khó kiếm. Tế bào gốc cấy ghép có thể lấy từ cơ thể của chính người bệnh hoặc lấy từ máu cuống rốn của trẻ sơ sinh. Để việc cấy ghép thành công, không bị thải loại thì trước khi cấy ghép phải thực hiện các biện pháp sàng lọc, lựa chọn xem có phù hợp với miễn dịch cơ thể của người bệnh không.

    ThS Phan Kim Ngọc cho biết, mỗi liệu trình cấy ghép cho một người bệnh có khoảng từ 2-5 đợt tùy thuộc vào thể trạng từng người. Tới đây – ngày 13/11, ông sẽ thực hiện liệu trình cấy ghép đợt 3. Vì đây là công nghệ mới ở Việt Nam và đang trong chương trình thử nghiệm nên chưa có mức giá cụ thể, tuy nhiên có nhiều khả năng sẽ rẻ hơn so với nước ngoài để phù hợp với khả năng chi trả của người Việt. Những ưu điểm và cũng là những đột phá về y học mà phương pháp này đem lại đã cứu sống hàng triệu người trên thế giới khi không may mắc các bệnh hiểm nghèo.

    ThS Phan Kim Ngọc cho biết, hiện ở Việt Nam, công nghệ tế bào gốc đã được sử dụng để điều trị cho một số bệnh như một số dạng ung thư máu (Bệnh viện Huyết học và Truyền máu TPHCM đã thực hiện thành công), các bệnh về da, khớp, mắt, phổi và sắp tới có thể sử dụng tế bào gốc điều trị bệnh tiểu đường.

    Tái tạo những gì tổn thương

    Theo ThS Phan Kim Ngọc, ưu điểm của điều trị bằng tế bào gốc chính là khả năng tái tạo lại những gì bị tổn thương. Không phải tế bào nào bị tổn thương cũng có thể tái tạo được, nhưng rất nhiều tế bào bằng các phương pháp điều trị hiện đại không tác động được tới thì công nghệ tế bào gốc có thể làm được.

    Tế bào gốc nhóm nghiên cứu phòng Tế bào gốc Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia TPHCM sử dụng là tế bào gốc trung mô, một loại tế bào gốc trưởng thành không tạo máu.

    Công nghệ tế bào gốc ở Việt Nam đã phát triển khá tốt, nhưng còn cách quá xa so với các nước phát triển, nguồn nhân lực thiếu và yếu. Thống kê cho thấy, cả nước chỉ có khoảng 300 người làm công việc liên quan đến tế bào gốc, trong đó, không quá 50 người được đào tạo chính quy về tế bào gốc. Bên cạnh đó, việc đầu tư các trang thiết bị đòi hỏi rất lớn, đa phần l
    à các loại đắt tiền. May mắn là ở Việt Nam, Nhà nước cũng đã đầu tư một phòng thí nghiệm trọng điểm về tế bào gốc. Cuối cùng là vấn đề hành lang pháp lý đang không theo kịp. Ví dụ, tế bào gốc không được sắp xếp vào hạng mục điều trị nào, là thuốc, mô ghép, thiết bị, dược… đều không phải. Bởi thế, nhiều nơi muốn ứng dụng nhưng hành lang pháp lý không cho phép nên không làm được.

    Hiện trong nước, một số trị liệu từ ứng dụng tế bào gốc đã có hiệu quả, đặc biệt tế bào gốc lấy từ mô mỡ cho trị liệu khớp gối, nghẽn đường hô hấp; bệnh ly thường bì trẻ em ở Hà Nội và cả trị liệu ung thư cổ tử cung bằng xạ trị. Tuy nhiên, theo TS Phạm Văn Phúc, Phó Trưởng phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc, Đại học Khoa học tự nhiên TPHCM, vẫn còn nhiều câu hỏi lớn trong việc điều trị và chăm sóc sức khỏe bằng tế bào gốc chưa được trả lời thỏa mãn.Ở tuổi 60, vì không thể chịu được áp suất cao do căn bệnh COPD mang lại nên ThS Phan Kim Ngọc đã phải “giậm chân tại chỗ”. Ông bảo, ông không hài lòng về những gì mình đã làm được, bởi vẫn còn quá nhiều việc phải làm. Dù phải vất vả lắm mới theo được đà phát triển công nghệ của thế giới, dù “ỳ ạch” đi theo thì vẫn phải gắng sức, vì nếu thấy mỏi mệt mà dừng chân thì sự tụt hậu sẽ càng kéo dài, khoảng cách ấy sẽ ngày càng xa mà không có cách gì rút ngắn được.

    Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc (Đại học Khoa học tự nhiên TPHCM) mới đây đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là phòng thí nghiệm cấp quốc gia. Thời gian qua Phòng đã đạt nhiều thành tích tiêu biểu: Năm 2007, đề tài tái tạo giác mạc mắt từ tế bào gốc do phòng thí nghiệm kết hợp với ĐH Y Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện Mắt TPHCM thực hiện được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học công nghệ quốc gia. Năm 2008, đề tài “Tạo tinh trùng chuột từ tế bào mầm sinh dục” tiếp tục được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện khoa học công nghệ quốc gia. Năm 2009, phòng thí nghiệm đoạt giải thưởng Sáng tạo khoa học kỹ thuật TPHCM với đề tài tạo bò sữa từ tế bào trứng đông lạnh….

    Theo Thủy Anh – Thùy Dương (Khoa học phát triển)
    Nguồn: http://khampha.vn/khoa-hoc-cong-nghe/chuyen-nguoi-tu-dem-minh-lam-thi-nghiem-c7a370321.html

  • Tạp chí Biomedical Research and Therapy – Tạp chí chuẩn quốc tế do Người Việt, của Người Việt và tại Việt Nam

    Tạp chí Biomedical Research and Therapy – Tạp chí chuẩn quốc tế do Người Việt, của Người Việt và tại Việt Nam

     

    bmrat

    ISSN: 2198-4093

    Nhằm xây dựng một Tạp chí Khoa học ngang tầm quốc tế, TS.  Phạm Văn Phúc – PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc,  Trường ĐHKHTN, ĐHQG Tp.HCM đã thành công xây dựng Tạp  chí quốc tế với tên Biomedical Research and Therapy (BMRAT) đạt chuẩn Tạp chí KH quốc tế.

     

    Mới đây Tạp chí BMRAT đã được liệt kê vào Danh sách Master  Journal List của Thomson Reuters; và 1 trong các Web of  Science Core Collection là Emerging Sources Citation Index  (ESCI) của Thomson Reuters. BMRAT trở thành 01 trong số  hiếm hoi các Tạp chí xuất bản ở Việt Nam, do người Việt Nam  sáng lập nằm trong các cơ sở dữ liệu này.

     

    Xuất phát từ tình hình thực tế về các Tạp chí Khoa học của nước ta, đến thời điểm năm 2013 chưa có Tạp chí Khoa học nào của Việt Nam được trích dẫn trong Master Journal List cũng như trong các database SCI hay SCIE của Thomson Reuters; Tiến sĩ Phạm Văn Phúc – PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc, Trường Đại học KHTN, ĐHQG Tp.HCM đã quyết tâm xây dựng các Tạp chí quốc tế với mong muốn trong một thời gian ngắn các Tạp chí này có thể được đưa vào danh sách và các database của Thomson Reuters. Từ đó, TS. Phúc đã xoay xở nhiều cách khác nhau để có thể ra đời một Tạp chí Khoa học có đẳng cấp quốc tế. TS đã liên hệ nhiều nơi để xin ra đời 1 Tạp chí, và cuối cùng anh đã thành công để làm việc với NXB Springer để ra đời Tạp chí đầu tiên trong kế hoạch của anh, với tên Biomedical Research and Therapy.

     

    Thông tin Tạp chí:

    Tên: BIOMEDICAL RESEARCH AND THERAPY

    Viết tắt: BMRAT

    ISSN: 2198-4093

    Mainpage: www.bmrat.org

    Webpage: http://www.springer.com/globalsciencejournals/biomed+res+ther?SGWID=0-1764014-0-0-0

    Hình thức: Open Access

    Số công bố: 12/năm (mỗi tháng 1 số)

    Ngôn ngữ: Tiếng Anh

    Được trích dẫn: Web of Science (Master Journal List, Thomson Reuters), Emerging Sources Citation Index (Web of Science Core Collection, Thomson Reuters), NLM (National Library of Medicine, NCBI), DOAJ, Infona, Advance Science Index, OCLC WorldCat, ZB MED, BASE, Google Scholar, CiteFactor, DRJI, NewJour, EBSCOhost, J-Gate, Summon…

    Tạp chí đang là: thành viên của Uỷ Ban Quốc tế của các Biên Tập Viên Tạp chí Y khoa (International Committee of Medical Journal Editors -ICMJE), Hội Biên tập Viên Tạp chí Y khoa thế giới (World Association of Medical Editors -WAME), , Uỷ Ban Đạo lí về công bố (Committee on Publication Ethics COPE), CrossRef…


    Một số nét lịch sử ra đời Tạp chí BMRAT:

    –          Năm 2013: Trao đổi với một số Nhà Xuất Bản Việt Nam và nước ngoài về ý tưởng làm các Tạp chí chuẩn quốc tế cho Việt Nam

    –          Tháng 6/2013: Xây dựng Website cho Tạp chí BMRAT

    –          Tháng 10/2013: Chọn hình thức hợp tác với NXB Springer để thiết lập Tạp chí ở dạng Springer là Vendor, BioMedPress là NXB.

    –          Tháng 1/2014: Kí hợp đồng xuất bản với NXB Springer trong flatform Global Science Journals.

    –          Tháng 1/2014: Bài báo đầu tiên được công bố bởi BioMedPress vào ngày 08/01/2014 trên BMRAT

    –          Tháng 3/2014: Công bố bài báo đầu tiên trên hệ thống Springer.

    –          Tháng 10/2014: Tạp chí BMRAT được liệt kê vào danh mục NLM (National Library of Medicine) của NCBI

    –          Tháng 11/2015: Tạp chí BMRAT được liệt kê vào Danh mục Master Journal List của Thomson Reuters

    –          Tháng 12/2015: Tạp chí BMRAT được indexed trong Database mới của Thomson Reuter là Emerging Sources Citation Index (ESCI)

    –          Hiện tại, Tạp chí BMRAT đang được Thomson Reuters xem xét để đưa vào Science Citation Index – Expanded (SCIE)

     

    Đặc điểm nổi bật của BMRAT

    1. Tất cả các bài nộp vào Tạp chí (ngoại trừ Editorial) được peer-review với các Nhà khoa học lấy từ cơ sở dữ liệu của Pubmed/Pubmed Central.

    Các peer-reviewer được chọn là các first author hay corresponding author của công trình tương tự công trình cần phản biện và được công bố trong hệ thống Thomson Reuters trong 3 năm trở lại.

    2. Tất cả các bài được kiểm tra nghiêm ngặt về đạo văn bởi hệ thống kiểm tra đạo văn iThenticate và CrossCheck

    Những bài có đạo văn hay tự đạo văn đều bị từ chối tức thì.

    3. Chất lượng tiếng Anh được kiểm tra bởi Grammarly, đảm bảo chất lượng bài viết chuẩn tiếng Anh.

    4. Chất lượng hình ảnh: toàn bộ hình ảnh phải đảm bảo rõ ràng, đạt chuẩn độ điểm dpi. Hiện tại, Tạp chí sử dụng hệ thống tự động đánh giá điểm pdi của ảnh và chỉ chấp nhận ảnh có chất lượng >150 dpi.

    Trong năm 2017, chất lượng ảnh sẽ nâng lên thành >300 dpi.

    5. Có chính sách khuyến khích công bố cho các quốc gia chậm phát triển hay đang phát triển (kể cả Việt Nam): miễn phí hay giảm phí công bố.

    6. Tạp chí ở dạng Open Access, người đọc không phải trả phí.

    7. Tạp chí có hệ thống nộ
    p bài trực tuyến (Online Submission), tạo thuận lợi cho người nộp bài.

    8. Tạp chí được trình bày đẹp, không giới hạn về số trang, hình màu, tất cả các bản thảo được chấp nhận (accepted) đều được công bố ngay ở dạng abstract.

    9. Tất cả các bài đều được trình bày ở các dạng PDF, HTML, XML thuận lợi cho việc indexed và abstracted; vì thế tất cả các bài dễ dàng trích dẫn trên hầu hết các cơ sở dữ liệu của thế giới.

    Mỗi bài có 1 số DOI để theo dõi, và citation

    10. Giao diện Tạp chí có thể truy cập, đọc và tương thích với điện thoại, máy tính bảng

    Là thành viên của nhiều Hội quốc tế, đặc biệt về Đạo đức công bố, BMRAT luôn xây dựng ở mức cao nhất về đạo đức công bố để loại bỏ đạo văn, công bố lại các kết quả đã công bố, các kết quả từ các nghiên cứu không được chấp thuận về Y đức, không có tuyên bố tình trạng đạo đức trong nghiên cứu trên người và động vật trong bài báo.

    Tạp chí BMRAT phấn đấu được xếp vào database SCIE của Thomson Reuters vào năm 2017-2018 và có điểm Impact Factor của Joural Citation Report (JCR, Thomson Reuters) đầu tiên vào năm 2018-2019.

    Trong kế hoạch của mình, đến năm 2020, TS Phúc sẽ xây dựng khoảng 5 Tạp chí KH cho các chuyên ngành của lĩnh vực Biomedical Science. Đến nay, ngoài Tạp chí BMRAT, TS Phúc đã xây dựng thành công Tạp chí thứ 2 với tên Progress in Stem Cell (PSC). Sau BMRAT, PSC sẽ được anh phát triển và “gia nhập” vào hệ thống của Thomson Reuters trong thời gian tới.

     

     

    TS. Phạm Văn Phúc

    TS. Phạm Văn Phúc sinh năm 1982 (sinh thật vào năm 1983), công bố hơn 40 bài báo trên các tạp chí khoa học quốc tế, là tác giả của hai đầu sách chuyên khảo về hướng điều trị ung thư vú bằng TBG, đồng tác giả 10 đầu sách tham khảo xuất bản quốc tế (NXB Springer, IGI Global, LAP publishing…), ba đầu sách xuất bản trong nước; thành viên Hội đồng ban biên tập bốn tạp chí khoa học quốc tế, tổng biên tập hai tạp chí khác (trong đó Biomedical Research and Therapy nằm trong danh sách tạp chí tham khảo về y khoa của Mỹ); chủ nhiệm một đề tài độc lập cấp nhà nước, một đề tài Nafosted, một đề tài chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; chủ nhiệm nhiều đề tài cấp Đại học Quốc gia TP.HCM và tham gia nhiều đề tài khác.

    TS. Phúc và các đồng sự PTN TBG đã có bảy sản phẩm chuyển giao, thương mại hóa gồm: mỹ phẩm từ TBG và cho TBG, chế tạo thành công hai bộ kit trang thiết bị y tế phục vụ công nghệ TBG, đã được Bộ Y tế cho phép lưu hành (tách chiết huyết tương giàu tiểu cầu hoạt hóa New PRP Pro Kit, và tách chiết TBG từ mô mỡ ADSC Extraction Kit – đã được xuất khẩu Indonesia)…

     

    Tin PTN TBG

     

  • Kết quả vòng loại cuộc thi Stem cell Innovation 2015

    Kết quả vòng loại cuộc thi Stem cell Innovation 2015

    Chào các bạn thí sinh,
    BTC xin gởi đến các bạn kết quả vòng loại ở file đính kèm

    Sau vòng sơ loại có 42 ý tưởng đã lọt vào vòng bán kết (danh sách đính kèm)

    https://drive.google.com/file/d/0B2avNn09F6t1Nml4bW8zNFkyNEk/view?usp=sharing
    Vòng bán kết sẽ diễn ra vào ngày 13/12/2015 tại PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc.

    Địa chỉ: toàn nhà B23, Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM, phường Linh Trung, quận Thủ Đức

    – Cách tính điểm vòng thi này sẽ thay đổi, tính khả thi và khoa học ở vòng này sẽ chiếm tỉ lệ cao 40%, còn lại là tính mới 50% và phong cách trình bày 10%. So với vòng sàn Tính khá thi và khoa học chỉ chiếm 30%.
    Do vậy, các bạn chuẩn bị bài báo cáo cần nhấn mạnh phần phương pháp thực hiện, càng logic và càng khoa học để mang lại được tính khả thi cao nhất có thể.
    Thời lượng báo cáo đúng 10 phút (BTC sẽ cắt vừa hết phút thứ 10), thời gian chất vấn 5 phút.

    Trường hợp các bạn không ở TP.Hồ Chí Minh và không thể tham gia báo cáo trực tiếp được thì phải làm video clip (không quá 5 phút) để trình bày ý tưởng gửi email về BTC ( stemcellinnovation2015@gmail.com) hạn cuối 21h 9/12/2015. BTC sẽ sắp xếp chất vấn trực tuyến qua skype ( dự kiến từ ngày 9-13/12)

    BTC sẽ có email chi tiết cho các tác giả có ý tưởng vào vòng bán kết.

    Trân trọng

  • Comparison of the Treatment Efficiency of Bone Marrow-Derived Mesenchymal Stem Cell Transplantation

    Stem Cells International
    Article ID 5720413

    Comparison of the Treatment Efficiency of Bone Marrow-Derived Mesenchymal Stem Cell Transplantation via Tail and Portal Veins in CCl4-Induced Mouse Liver Fibrosis

    Nhung Hai Truong,1,2 Nam Hai Nguyen,1 Trinh Van Le,1 Ngoc Bich Vu,1 Nghia Huynh,3 Thanh Van Nguyen,4 Huy Minh Le,3 Ngoc Kim Phan,1,2 and Phuc Van Pham1,2

    1Laboratory of Stem cell Research and Application, University of Science, VNU-HCM, Ho Chi Minh City 700000, Vietnam
    2Biology Faculty, University of Science, VNU-HCM, Ho Chi Minh City 700000, Vietnam
    3University of Medicine and Pharmacy Ho Chi Minh City, Ho Chi Minh City 700000, Vietnam
    4Nguyen Tat Thanh University, Ho Chi Minh City, Vietnam


    Received 3 June 2015; Revised 15 September 2015; Accepted 17 September 2015

    Academic Editor: Shinn-Zong Lin

    Copyright © 2016 Nhung Hai Truong et al. This is an open access article distributed under the Creative Commons Attribution License, which permits unrestricted use, distribution, and reproduction in any medium, provided the original work is properly cited.

     


    Abstract

    Because of self-renewal, strong proliferation in vitro, abundant sources for isolation, and a high differentiation capacity, mesenchymal stem cells are suggested to be potentially therapeutic for liver fibrosis/cirrhosis. In this study, we evaluated the treatment effects of mouse bone marrow-derived mesenchymal stem cells (BM-MSCs) on mouse liver cirrhosis induced by carbon tetrachloride. Portal and tail vein transplantations were examined to evaluate the effects of different injection routes on the liver cirrhosis model at 21 days after transplantation. BM-MSCs transplantation reduced aspartate aminotransferase/alanine aminotransferase levels at 21 days after injection. Furthermore, BM-MSCs induced positive changes in serum bilirubin and albumin and downregulated expression of integrins (600- to 7000-fold), transforming growth factor, and procollagen-α1 compared with the control group. Interestingly, both injection routes ameliorated inflammation and liver cirrhosis scores. All mice in treatment groups had reduced inflammation scores and no cirrhosis. In conclusion, transplantation of BM-MSCs via tail or portal veins ameliorates liver cirrhosis in mice. Notably, there were no differences in treatment effects between tail and portal vein administrations. In consideration of safety, we suggest transfusion of bone marrow-derived mesenchymal stem cells via a peripheral vein as a potential method for liver fibrosis treatment.

    Nhung Hai Truong, Nam Hai Nguyen, Trinh Van Le, et al., “Comparison of the Treatment Efficiency of Bone Marrow-Derived Mesenchymal Stem Cell Transplantation via Tail and Portal Veins in CCl4-Induced Mouse Liver Fibrosis,” Stem Cells International, Article ID 5720413, in press.

    http://www.hindawi.com/journals/sci/aa/5720413/cta/