CN. Trịnh Thị Cẩm Trân, PTN Nghiên cứu và Ứng dụng Tế bào gốc
Lược dịch: Technology Quarterly section of the print edition under the headline “Conception, reconceived”: Lack of basic research has hampered assisted reproduction
Hàng chục triệu phôi người đã được tạo ra trong các phòng thí nghiệm trong nửa thế kỷ qua. Làm sao một tế bào phôi đơn lẻ phát triển thành một con người? Các cơ chế cơ bản chi phối cách một sự sống mới của con người hình thành dựa trên nền tảng tế bào, phân tử và di truyền của sinh học sinh sản và lý do gây vô sinh của con người phần lớn là chưa được biết rõ.
Có nhiều lý do dẫn đến việc thiếu nghiên cứu cơ bản về sinh học sinh sản. Kể từ năm 1996, Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH), cơ quan tài trợ lớn nhất cho nghiên cứu y sinh trên thế giới, đã bị pháp luật cấm chi tiền cho các nghiên cứu về phôi người nếu các phôi này chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu hoặc bị tiêu hủy. Không giống như bệnh ung thư vốn thu hút một lượng lớn tài trợ nghiên cứu, vô sinh không phải là một tình trạng đe dọa đến tính mạng. Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã không công nhận vô sinh là một căn bệnh cho đến năm 2017. Các công ty dược phẩm cũng không ‘hào hứng’ để nghiên cứu giải quyết vấn đề này.
Sau nhiều nỗ lực, ngành Hỗ trợ sinh sản (HTSS) đã đạt được được một số thành tựu, tỉ lệ thành công xấp xỉ 50% số ca điều trị. Điều này làm cho việc tìm kiếm các phương án thay thế lại càng ít cấp bách hơn. Do đó, những bệnh nhân vô sinh chưa rõ nguyên nhân được điều trị bằng những kỹ thuật HTSS vốn được thiết kế cho nhóm đối tượng có bất thường về sinh lý, và bị phớt lờ nguyên nhân. Một hạn chế khác của nghiên cứu cơ bản trong kỹ thuật HTSS là sự khác biệt về cách tiếp cận. Các kỹ thuật HTSS đã và đang được hoàn thiện dần chỉ nhờ vào việc lặp lại các quy trình để quan sát việc thay đổi các điều kiện thực hiện của phương pháp tạo ra phôi khả thi thay vì những nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế hoạt động, do đó vẫn chưa giải thích được cách phôi được tạo ra.
Nghiên cứu cơ bản về tế bào gốc mang lại kỳ vọng có thể tạo ra trứng và tinh trùng (in vitro gametogenesis-IVG) cung cấp cho phòng thí nghiệm nghiên cứu thay vì phụ thuộc vào người cho rất khắt khe hiện nay. Những hiểu biết sâu sắc từ việc theo dõi và kiểm soát quá trình sản xuất trứng và tinh trùng sẽ rất hữu ích cho ¼ trường hợp vô sinh do không sản xuất giao tử. Những nghiên cứu này kỳ vọng sẽ trả lời được nhiều câu hỏi như “phôi gây sảy thai, bệnh bẩm sinh được hình thành như thế nào?..”
Việc nuôi cấy trong phòng thí nghiệm có thể không phải là vấn đề mà các câu hỏi đạo đức mới là một phần không thể bỏ qua của quá trình hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên những tiến bộ như vậy có thể tạo ra những khả năng mới cho các bậc cha mẹ đồng giới và chuyển giới, đồng thời tái thiết lập khả năng sinh học cho phụ nữ vô sinh. Niềm vui làm cha mẹ mà HTSS đã mang lại cho hàng triệu người có thể được lan tỏa hơn nữa. Nỗi đau của một chu kỳ IVF thất bại chắc chắn sẽ vẫn còn đó, nhưng sẽ ít người cảm nhận được điều đó hơn. Và sẽ có ít người hơn cuối cùng phải chọn ngừng cố gắng một cách lặng lẽ, không thể nguôi ngoai, thì đó thực sự là một sự tiến bộ.
Chúc mừng ngày Chuyên viên phôi học thế giới 25 tháng 7
Sáng ngày 23 tháng 6 năm 2023, Trường ĐH KHTN ĐHQG HCM đã long trọng tổ chức lễ tốt nghiệp cho các tân Tiến sĩ, Thạc sĩ. Trong buổi lễ tốt nghiệp này, Phòng thí nghiệm Tế Bào Gốc đã vui mừng khi có 3 cán bộ của phòng là các Thầy Phạm Duy Khương, Huỳnh Đức Phát và Lê Minh Thuận đã được vinh danh là tân Thạc sĩ.
PTN xin chúc mừng thành quả xứng đáng từ quá trình học tập và làm việc của các Thầy. Có thể nói, môi trường làm việc ở PTN luôn hỗ trợ khuyến khích cho việc liên tục học tập và nâng cao trình độ của các cán bộ công tác tại PTN. Đây là truyền thống và đặc thù của một người làm nghiên cứu khoa học.
Chiều nay, 14 giờ ngày 22 tháng năm năm 2023, tại Trường ĐH KHTN, ĐHQG HCM đã diễn ra buổi bảo vệ luận án tiến sĩ cấp đơn vị chuyên môn của Nghiên cứu sinh (NCS) Lê Văn Trình, nghiên cứu viên tại PTN Tế bào gốc.
Tham dự buổi bảo vệ có mặt đầy đủ thành viên hội đồng đánh giá luận án là các thầy cô chuyên gia trong lĩnh vực Công nghệ sinh học, chuyên ngành mà nghiên cứu sinh theo học. Đồng thời, buổi bảo vệ có sự hiện diện của PGS TS Trương Hải Nhung, cán bộ hướng dẫn của NCS và tập thể nhóm nghiên cứu Y học tái tạo gan. Ngoài ra, các thầy cô đồng nghiệp của NCS từ PTN và Viện Tế bào gốc, cũng như bạn bè và các nhà nghiên cứu có quan tâm tới lĩnh vực đã tới tham dự.
Sau 35 phút trình bày nội dung chính của luận án, NCS đã lắng nghe những ý kiến đánh giá, nhận xét và góp ý của hội đồng để NCS hoàn thiện luận án hơn. NCS cũng đã giải trình những vấn đề và các câu hỏi của tất cả thành viên hội đồng đã nêu ra. Phần nhận xét, thảo luận này đã kéo dài 3 giờ đồng hồ với tinh thần nghiêm túc, xây dựng, lắng nghe, khách quan của hội đồng và NCS. Cuối cùng, hội đồng đã trải qua phiên họp kín để thông qua kết quả đánh giá luận án của NCS.
Được biết, luận án của NCS đã công bố thành công 5 bài báo ISI (3 bài Q1, 1 bài Q2 và 1 bài Q4) với tổng chỉ số ảnh hưởng >21. Ngoài ra, NCS và nhóm nghiên cứu đã nộp 1 đơn đăng ký sáng chế là kết quả thuộc nội dung của luận án. Hội đồng đánh giá cao những nỗ lực, kết quả đạt được của NCS và nhóm nghiên cứu, đã thống nhất thông qua và miễn vòng phản biện độc lập cho NCS Lê Văn Trình.
Sau cùng, NCS gởi lời cảm ơn tới hội đồng, giáo viên hướng dẫn, các thế hệ lãnh đạo PTN và Viện tế bào gốc, tập thể nhóm nghiên cứu, các thầy cô và đồng nghiệp, cũng như các thầy cô anh chị đã quan tâm tới dự buổi bảo vệ. Đồng thời, NCS cũng nghiêm túc lắng nghe các góp ý và chỉnh sửa luận án để hoàn thiện nhất có thể. Buổi bảo vệ kết thúc lúc 17h30 cùng ngày.
PTN vui mừng vì đã có thêm một NCS, cũng là thành viên của PTN đã hoàn thành cột mốc mới trong chặng đường học tập, làm việc và nghiên cứu. Xin cảm ơn!
Theo công bố thống kê tổng hợp ước tính trên thế giới có khoảng 1.5 tỷ người bị các bệnh gan mạn tính. Trong đó có 10.6 triệu bệnh nhân ở giai đoạn gan mất bù, 112 triệu bệnh nhân xơ gan. Xơ gan gây ra 1.3 triệu ca tử vong mỗi năm. Tuy nhiên, đây chỉ là con số ước tính và thực tế tỷ lệ này được cho là lớn hơn nhiều.
Xơ gan là căn bệnh phổ biến do nhiều nguyên nhân như viêm gan do virus B/C, do sử dụng chất cồn, và do bệnh viêm gan nhiễm mỡ không do rượu… Việc điều trị bệnh xơ gan là rất tốn kém về cả thời gian và tiền bạc, thậm chí vẫn chưa có thuốc đặc trị trên người. Do đó, sự cần thiết về việc có thể chẩn đoán sớm và các thuốc ngăn ngừa, điều trị bệnh gan ở giai đoạn nhẹ được xem là ưu tiên hàng đầu để giảm thiểu thiệt hại do xơ gan.
Sáng nay 28-2-2023 tại buổi họp Chi bộ Viện Tế Bào Gốc tháng 2/2023. Thay mặt cho toàn thể chi bộ, đồng chí Bí thư chi bộ Phạm Văn Phúc đã đọc và trao quyết định công nhận đảng viên chính thức của Đảng ủy Trường Đại học Khoa học Tự nhiên cho đồng chí đảng viên dự bị Lê Văn Trình.
Xin chúc mừng đồng chí Lê Văn Trình, nghiên cứu viên của Phòng thí nghiệm đã được nhận quyết định. Chúc đồng chí học tập, rèn luyện và công tác tốt, cố gắng đóng góp tích cực cho sự phát triển của đơn vị.
Sau hơn mười năm thành lập, Viện Tế bào gốc (được thành lập trên cơ sở các thành tựu của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc), trường ĐH KHTN, ĐHQG TP Hồ Chí Minh không chỉ đem lại những nghiên cứu quan trọng về tế bào gốc trên người và chuyển giao công nghệ để đưa vào điều trị phổ biến trong y tế mà còn góp phần làm thay đổi hẳn diện mạo của ngành học này ở Việt Nam.
Nguồn thu từ chuyển giao công nghệ đã đem lại nguồn đầu tư cho tốt cho nghiên cứu của Viện/ Viện đủ khả năng chi trả cho các đề tài nghiên cứu cấp Viện tối đa lên tới 500 – 600 triệu/ một đề tài. Ảnh: Trong phòng thí nghiệm của Viện Tế bào gốc. Nguồn: Viện Tế bào gốc.
Đi đầu trong chuyển giao công nghệ tế bào gốc
Năm 2016, Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh, TP HCM là đơn vị duy nhất được Bộ Y tế phê chuẩn áp dụng chính thức kỹ thuật điều trị thoái hóa khớp bằng tế bào gốc mô mỡ tự thân (lấy mô mỡ của chính người bệnh để tách chiết lấy tế bào gốc) và huyết tương giàu tiểu cầu. Phương pháp mới này đem lại hiệu quả điều trị lên tới 86% và bệnh nhân thoái hóa khớp gối không cần phải phẫu thuật cũng như quá trình hồi phục kéo dài sau phẫu thuật. Cùng thời điểm, đây cũng là đơn vị đầu tiên được thử nghiệm lâm sàng đánh giá an toàn và hiệu quả bước đầu của phương pháp ghép tế bào gốc trung mô ở bệnh nhân đái tháo đường type 1, thử nghiệm lâm sàng liệu pháp tế bào gốc để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính COPD.
Điều đáng ngạc nhiên là, những kỹ thuật được đánh giá là tiên tiến này lại không phải là sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, mà hoàn toàn là chuyển giao công nghệ “nội địa” giữa bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh với Viện Tế bào gốc. Những bộ kit tách chiết tế bào gốc từ mô mỡ và bộ kit tách chiết huyết tương giàu tiểu cầu đều là những kết quả nghiên cứu hoàn toàn do người Việt thực hiện tại Viện tế bào gốc và được chuyển giao cho công ty TNHH Thế giới gene ở Khu công nghệ cao Quận 9 TP HCM sản xuất.
Điều trị bệnh thoái hóa khớp gối bằng tế bào gốc tại bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh. Ảnh: VTV.
Hiện nay, các đơn vị ứng dụng nghiên cứu tế bào gốc vào điều trị không còn hiếm hoi ở Việt Nam, ước tính, có khoảng gần 50 cơ sở trong cả nước, nhưng Viện Tế bào gốc là cơ quan duy nhất có khả năng thực hiện các nghiên cứu bài bản, đưa ra công nghệ, từ chỗ chứng minh được hiệu quả, an toàn của công nghệ ở mức độ phòng thí nghiệm, trên động vật cho đến … đưa ra quy trình sản xuất đảm bảo đạt quy chuẩn cấy ghép trên người. “Viện khẳng định, môi trường nuôi cấy tế bào gốc trung mô của Viện không thua kém bất kỳ một sản phẩm nào khác, của bất cứ nước nào trên thị trường. Nếu các đơn vị sử dụng môi trường nuôi cấy của Viện tế bào gốc mà nhận thấy có sản phẩm của nơi khác tốt hơn, thì Viện sẽ tặng không môi trường nuôi cấy của Viện”, TS. Vũ Bích Ngọc, Trưởng phòng KH&CN và Sở hữu trí tuệ tại Viện cho biết. Nhưng những đơn vị đã dùng môi trường nuôi cấy tế bào gốc của Viện đều rất “chung thủy” với sản phẩm của Viện. Bởi vì, hiện nay, đa số công nghệ được chuyển giao của Viện đều có giá … 1.000 đồng – Với mức giá chuyển giao này, Viện không nhận tiền chuyển giao công nghệ mà chỉ yêu cầu đơn vị nhận chuyển giao sử dụng hóa chất, vật tư của viện trong quá trình sử dụng sau này. Sản phẩm tốt là chưa đủ, Viện còn hỗ trợ kỹ thuật bài bản cho các đơn vị được chuyển giao công nghệ, thậm chí nếu đơn vị đó muốn thành lập một đơn vị chuyên tách chiết và nuôi cấy tế bào gốc phục vụ cho điều trị hoặc nghiên cứu thì Viện cũng sẽ hỗ trợ kỹ thuật trong suốt quá trình xây dựn
Cách tổ chức bài bản, minh bạch
Hiệu quả từ nghiên cứu ứng dụng có thể “đo đếm” được mới chỉ là “phần nổi của tảng băng trôi”. Những ứng dụng và chuyển giao đó là kết quả của đầu tư cho nghiên cứu cơ bản rất bài bản của Viện trong suốt mười năm qua. Không khó để nhìn thấy kết quả đó, với một loạt công bố của các nhà nghiên cứu trong Viện: PGS.TS Phạm Văn Phúc (Viện trưởng) và Ths Phan Kim Ngọc (nguyên Trưởng Phòng thí nghiệm Tế bào gốc) đều có hơn một trăm công bố, các trưởng phòng hiện nay của Viện đều có khoảng hơn 10 cho tới 40 – 50 công bố, cho đến những nhà nghiên cứu trẻ cũng đều có tên trong danh sách công bố này. Thậm chí, “hầu hết sinh viên được giữ lại ở đây, sau khi làm xong đề tài tốt nghiệp là đã công bố được một bài báo quốc tế thuộc Web of Science và Scopus với Impact factor cao”, TS. Vũ Bích Ngọc cho biết.
Viện khẳng định, môi trường nuôi cấy tế bào gốc trung mô của Viện không thua kém bất kỳ một sản phẩm nào khác, của bất cứ nước nào trên thị trường
Chính những nghiên cứu cơ bản là những viên gạch móng đầu tiên cho ngành học này. Từ những năm 2000, khi thế giới công bố các nghiên cứu về tế bào gốc, Ths Phan Kim Ngọc nhận ra ngay đây là “kho vàng” của y học và bắt đầu xắn tay vào viết dự án thành lập phòng thí nghiệm tế bào gốc. Ông tham khảo kinh nghiệm quốc tế, viết thư hỏi các đồng nghiệp trên thế giới. “Thậm chí, tại thời điểm thành lập Phòng thí nghiệm tế bào gốc, khái niệm tế bào gốc vẫn chưa ra đời, thời gian đó các nhà khoa học Việt Nam vẫn gọi stem cell như là tế bào mầm. Chúng tôi đọc các công bố nước ngoài thì phát hiện có một thuật ngữ khác là germ cell là tế bào mầm và đề xuất thay đổi cái gọi từ tế bào mầm sang tế bào gốc (stem cell). Song vẫn còn tranh cãi và niềm tin về vai trò một loại tế bào đặc biệt – tế bào gốc vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi trong các nhà khoa học ở nước ta”, PGS.TS Phạm Văn Phúc nhớ lại.
Các thí sinh tham tham gia cuộc thi Stem Cell Innovation 2018 của Viện. Ảnh: Viện Tế bào gốc.
Nhưng Ths Phan Kim Ngọc tin tưởng vào sự chuẩn bị bài bản của ông, từ chỗ thuyết phục, kêu gọi các nhà khoa học nước ngoài cùng tham gia hợp tác nghiên cứu, cho tới đặt vấn đề hợp tác với các phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu khác trong nước (Bệnh viện Từ Dũ, Viện Chăn nuôi quốc gia). Ông tự đề ra một khái niệm “biên giới linh động”. “Khi ai hỏi ‘biên chế’ phòng thí nghiệm của tôi bao nhiêu người, tôi yêu cầu phải hỏi cụ thể ‘biên chế của chương trình nào, đề tài nào, hướng nghiên cứu nào?’, vì mỗi Chương trình của tôi có nhiều người từ các đơn vị khác, thậm chí có cả người nước ngoài, được ký cùng làm trong 2- 3 năm chẳng hạn. Mình chưa biết làm, tất cả đều mới, nên chắc chắn phải hợp tác với nước ngoài”, ông kể. Ông cùng học trò bắt đầu tiến hành những thí nghiệm đầu tiên. Năm 2005, Phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học phân tử – do Ths Phan Kim Ngọc xây dựng trước đó và sau này sáp nhập vào Phòng thí nghiệm Tế bào gốc – đã phân lập nuôi cấy, biệt hoá thành công tế bào gốc từ tuỷ xương chuột, phôi thai chuột. Tất cả những điều đó đã đem lại một thuyết minh dự án đầy tiềm năng, tương lai nghiên cứu mới của ngành học mới mẻ này. Năm 2007, Bộ KH&CN quyết định đầu tư cho phòng thí nghiệm trọng điểm Nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc với số tiền đầu tư lên tới 40 tỉ đồng.
Mở ngay từ ban đầu
Đầu năm 2018, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc chính thức được quyết định chuyển thành Viện Tế bào gốc hoạt động theo cơ chế tự chủ. Tự nuôi quân, trong khi “Phúc là người ‘già’ nhất ở Viện”, theo Ths Phan Kim Ngọc, còn ông thì cũng đã nghỉ hưu từ năm 2016. Một đội ngũ rất trẻ, với tất cả lãnh đạo các phòng ban đều thuộc thế hệ 8X, thậm chí một số trưởng phòng chỉ mới 9X, liệu có bỡ ngỡ?
“Không, ngay từ giai đoạn còn là phòng thí nghiệm thì chúng tôi đã hoạt động chuyên nghiệp giống như một tổ chức độc lập, nên khi phát triển thành Viện, chỉ cần bê nguyên cơ cấu nhân sự đó thành Viện rồi kiện toàn cho nó hoàn thiện hơn”, TS Vũ Bích Ngọc nói. Chẳng hạn, theo chị Ngọc, từ trước 2007, mặc dù tất cả nhân sự của phòng thí nghiệm đều là làm công tác nghiên cứu (trừ kế toán) nhưng vẫn phân chia trách nhiệm xử lý hành chính theo từng nhóm riêng, sự kết hợp giữa các nhóm trong giải quyết hồ sơ rất ăn khớp, nhịp nhàng, khi có hồ sơ chuyển giao công nghệ, hợp tác nghiên cứu… đều được chuẩn bị rất bài bản rồi gửi sang cho trường giải quyết. Để giảm tải, tối ưu hóa thời gian cho khối lượng công việc hành chính cũng như trao đổi giữa các thành viên trong viện, chính Viện trưởng là người cập nhật và yêu cầu toàn bộ cán bộ sử dụng những phần mềm hỗ trợ tương tác, trao đổi công việc như Basecamp. Thậm chí, người viết bài này, khi đề xuất cán bộ Viện cập nhật một số tin tức mới về tình hình nghiên cứu y học trên thế giới cũng như thành tựu của Viện, thì ngay lập tức được mở một quyền truy cập vào Thư mục Tin khoa học trong Basecamp của Viện, và các trao đổi, thắc mắc đều được giải đáp, trả lời chỉ trong vài giờ đồng hồ.
Không chỉ đảm bảo một guồng máy làm việc nội bộ chặt chẽ, êm ru nhất, mà Viện cũng có tư duy mở, kết nối với giới nghiên cứu quốc tế cũng như cách thức quảng bá, truyền thông về tế bào gốc đến công chúng rất hiệu quả. Hai năm một lần, Viện tổ chức hội thảo quốc tế về tế bào gốc, mời những nhà khoa học uy tín trên thế giới về tế bào gốc cũng như toàn bộ giới nghiên cứu tế bào gốc, công nghệ sinh học ở Việt Nam, nhằm thảo luận về tình hình nghiên cứu trên thế giới, các kết quả mới ở Việt Nam. “Những hội thảo này rất hiệu quả, thông qua đó, chúng tôi đều có được bài viết tốt, mối quan hệ với những nhà khoa học uy tín và cơ sở hàng đầu trên thế giới”, theo TS. Vũ Bích Ngọc. Hàng loạt các trường đại học lớn, viện nghiên cứu đều đã tìm đến Viện để đặt vấn đề hợp tác. Viện cũng đã “hữu xạ tự nhiên hương”, chẳng hạn lãnh đạo và giảng viên của ba trường đại học từ Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc lần lượt đến Viện để tham quan, trao đổi trong tháng 11, 12 này đều là tự tìm đến chứ không phải do Viện liên hệ và mời. Năm năm nay, Viện thường xuyên tổ chức cuộc thi Stem Cell Innovation nhằm tạo sân chơi học tập và nghiên cứu cho tất cả các bạn học sinh, sinh viên yêu thích lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học. Quy mô của các kỳ thi này tăng lên nhanh chóng, năm 2016, có 200 đội thi đăng ký thì đến năm 2018, đã có tới 386 đội thi với 1185 thí sinh đến từ 41 trường đại học, phổ thông trung học trong cả nước. Một phong cách làm việc chuyên nghiệp, một tư duy cởi mở không phải tự nhiên mà có.
Từ thế hệ đầu là Ths Phan Kim Ngọc cho tới các thế hệ sau này, cán bộ Viện đều thực sự được “truyền lửa” – như cách nói của TS Vũ Bích Ngọc về một cách làm việc nhiệt huyết, không mệt mỏi của những thế hệ đi trước. Ths Phan Kim Ngọc hay PGS.TS Phạm Văn Phúc đều được các đồng nghiệp đánh giá là người “không biết đến điều gì khác ngoài công việc”. Ths Phan Kim Ngọc là người xây dựng phòng thí nghiệm từ số không, còn PGS.TS Phạm Văn Phúc tiếp nhận Viện khi đã có hình hài, cơ cấu bộ máy tương đối ổn định nhưng anh không hề ngơi tay. Người viện trưởng sinh năm 1983 này còn là tổng biên tập của hai tạp chí của Viện và đều được công nhận trong danh mục Scopus, Web of science vào năm ngoái. “Toàn bộ bài vở của hai tạp chí này đều do thầy Phúc lo, cán bộ Viện chỉ gửi bài thôi”, TS Vũ Bích Ngọc nói.
Từ 7h30-11h30 ngày 4/11/2018, Vòng thi đối kháng loại trực tiếp của cuộc thi Stem cell Innovation năm 2018 (Lần thứ 5-SCI2018) sẽ diễn ra tại Viện Tế bào gốc, Toà nhà B23, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM. Khu phố 6, Phường Linh Trung, Quận Thủ Đức, TP. HCM.
52 đội thi xuất sắc có số điểm cao nhất trong tổng gần 400 đội thi (3 thí sinh/đội) để vào vòng thi offline tiếp theo của SCI2018.
Các đội thi được phân thành 3 bảng:
– Bảng A: có 7 đội của các Trường Phổ thông Trung học (đến từ 6 Trường PTTH)
– Bảng B: có 23 đội đến từ các Trường Đại học (ngoại trừ ĐH KHTN, ĐHQG Tp.HCM) (đến từ 8 Trường Đại học)
– Bảng C: có 22 đội đến từ các đội của Trường Đại học KHTN, ĐHQG Tp.HCM
Bảng A: Danh sách các đội từ các Trường PTTH
Bảng B: 23 đội đến từ 8 Trường Đại học (ngoại trừ ĐH KHTN, ĐHQG Tp.HCM)
Bảng C: 22 đội đến từ các đội của Trường Đại học KHTN, ĐHQG Tp.HCM
Tại vòng thi này, các thí sinh sẽ vượt qua các thử thách với các kiến thức chung về Tế bào gốc.